Người Duy Ngô Nhĩ ở Trung Quốc đang là đối tượng bị mổ cướp nội tạng
13/12/19
Cũng giống như những người tập Pháp Luân Công ở Trung Quốc, người Duy Ngô Nhĩ đang là đối tượng bị mổ cướp nội tạng, cựu Quốc vụ khanh phụ trách Châu Á-Thái Bình Dương, ông David Kilgour nhận định trên tờ Ottawa Citizen vào ngày 10/12.
Theo Adrian Zenz, chuyên gia và học giả châu Âu về chính sách dân tộc của Trung Quốc, người Duy Ngô Nhĩ bị buộc phải rời nhà đến ở tại hơn 1.300 trại tập trung ở Tân Cương, Trung Quốc, mà không cần qua xét xử hay bất kỳ thủ tục pháp lý nào. Họ phải chịu đựng những giờ tẩy não vô tận “giết chết ký ức về con người họ, xóa sạch bản sắc, ngôn ngữ và lịch sử riêng của họ… Thậm chí ngay cả việc có một bản sao kinh Koran trong điện thoại hoặc gọi điện thoại ra nước ngoài có thể dẫn đến việc họ sẽ bị tống giam”, Zenz nói.
Theo ông David Kilgour, vào năm 2017, ông Tập bắt đầu xây dựng một mạng lưới trại cải tạo “tái giáo dục” cho các cộng đồng người Hồi giáo, tương tự như những trại được thành lập ở Trung Quốc sau năm 1999 dành cho những người tập Pháp Luân Công, môn khí công gồm 5 bài tập và các bài giảng đạo đức theo nguyên lý Chân – Thiện – Nhẫn. Các mạng lưới trại cải tạo này có thể giam giữ bất cứ ai bị cảnh sát bắt mà không qua bất kỳ phiên xét xử hay kháng cáo nào.
Trước người Duy Ngô Nhĩ, tội ác mổ cướp nội tạng của chính quyền Trung Quốc đã bị những người tập Pháp Luân Công tố cáo. Vào năm 2011, trong cuốn “Thủ tục Tân Cương” của tác giả Ethan Gutmann, đã liệt kê chi tiết thông tin thu được từ các nhân chứng Duy Ngô Nhĩ sống bên ngoài Trung Quốc. Một cựu bác sĩ phẫu thuật Duy Ngô Nhĩ, trong một bệnh viện ở Tân Cương, đã kể lại sự việc năm 1995, ông được lệnh đến một nơi để mổ lấy thận và gan khỏi cơ thể một người đàn ông bị thương, nhưng còn sống. Đau đớn dằn vặt bởi những gì đã làm, ông đã trốn khỏi Trung Quốc và tiết lộ câu chuyện này.
Trong cuốn sách xuất bản vào năm 2014 mang tên ‘The Slaughter – Kẻ cướp tạng’, tác giả Gutmann đưa ra các chứng cứ để ước tính rằng nội tạng của khoảng 65.000 người tập Pháp Luân Công và từ hai đến bốn ngàn người Duy Ngô Nhĩ, người Tây Tạng và Cơ đốc giáo đã “bị thu hoạch” trên khắp Trung Quốc từ năm 2000 đến 2008.
Gutmann lưu ý rằng vào năm 2017, ông biết tất cả đàn ông, phụ nữ và trẻ em người Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương đã được xét nghiệm máu và DNA, dường như để tìm các mô phù hợp cho mục đích ghép tạng. Lò hỏa táng đầu tiên trong số 9 lò được hoàn thành ở Ürümqi, thủ phủ Tân Cương vào đầu năm 2018, ba làn đường nhanh được mở để vận chuyển các bộ phận cơ thể người ở các sân bay trong khu vực.
Các nhân chứng Duy Ngô Nhĩ tại phiên tòa China Tribunal gần đây ở London đã mô tả các cuộc kiểm tra y tế khi bị giam giữ tương tự như trải nghiệm của những người tập Pháp Luân Công tại Trung Quốc. China Tribunal, một tòa án nhân dân quốc tế độc lập, sau đó đã báo cáo kết luận của mình với Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc.
Mặc dù Bắc Kinh luôn khẳng định rằng họ đã ngừng lấy nội tạng từ các tù nhân bị xử tử vào năm 2015 và thiết lập một hệ thống hiến tạng tự nguyện, nhưng có quá nhiều bằng chứng trái ngược điều đó.
Mới nhất là một báo cáo trên ‘Tạp chí Đạo đức Y khoa Anh’ chỉ ra rằng Bắc Kinh đang làm giả các dữ liệu hiến tạng và việc làm giả là “một sự che giấu cho việc tiếp tục sử dụng các nguồn tạng không tự nguyện từ những người bị ép buộc cung cấp nội tạng”.
Gần đây, một bộ tài liệu nội bộ dài 403 trang được một người trong chính quyền Trung Quốc cung cấp cho tờ The New York Times có thể khiến cho ông Tập và các nhà lãnh đạo khác của chính quyền Trung Quốc khó tránh khỏi tội ác giam giữ hàng loạt người Duy Ngô Nhĩ. 6 tài liệu nội bộ của chính quyền Trung Quốc mà Hiệp hội các nhà báo Điều tra Quốc tế có được, cho thấy các mệnh lệnh hà khắc nhằm quản lý các trại tẩy não đang tăng nhanh tại Tân Cương.
Bên cạnh đó, luật sư nhân quyền người Canada, David Matas đã tóm tắt những gì đang xảy ra ở Tân Cương, đó là việc kiểm tra máu và xét nghiệm máu có hệ thống, sự mất tích hay những cái chết không giải thích được, những chuyến du lịch cấy ghép tạng, và vận chuyển nội tạng ra khỏi Tân Cương.
Trong bài viết trên tờ Ottawa Citizen vào ngày 10/12, ông David Kilgour đề nghị cộng đồng quốc tế phải có các hành động trước hành vi đàn áp người Duy Ngô Nhĩ của chính quyền Trung Quốc như: các quốc gia có đa số người dân là Hồi giáo và các đối tác thương mại khác của Trung Quốc nên thúc giục Bắc Kinh chấm dứt đàn áp hàng loạt người Duy Ngô Nhĩ; Chính phủ và các tổ chức quốc tế nên áp dụng danh sách đen toàn cầu đối với tất cả hàng hóa nhập khẩu được sản xuất tại Tân Cương; Luật Magnitsky toàn cầu nên được sử dụng để áp các biện pháp trừng phạt về tài chính, thị thực đối với các quan chức chịu trách nhiệm về tội ác ở Tân Cương; Du lịch đến Tân Cương nên chấm dứt và thế vận hội mùa đông Bắc Kinh 2022 nên bị tẩy chay.
Băng Thanh
Nguồn: https://www.dkn.tv/the-gioi/nguoi-duy-ngo-nhi-o-trung-quoc-dang-la-doi-tuong-bi-mo-cuop-noi-tang.html
THƯ KIẾN NGHỊ HOÃN PHÊ CHUẨN EVFTA VÀ IPA
Kính gửi:
- Ông David Sassoli, Chủ Tịch Quốc Hội Âu Châu
- Ông Bernd Lange, Chủ Tịch Ủy Ban Thương Mại Quốc Hội Âu Châu
- Ông David MacAllister, Chủ Tịch Ủy Ban Ngoại Giao Quốc Hội Âu Châu
- Bà Marie Aréna, Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Quyền Quốc Hội Âu Châu
- Ông Tomas Tobé, Chủ Tịch Ủy Ban Phát Triển Quốc Hội Âu Châu
- Các cơ quan thuộc Quốc Hội Âu Châu
Tôi là Phạm Chí Dũng, nhà báo độc lập, Chủ tịch Hội Nhà báo độc lập Việt Nam - một tổ chức xã hội dân sự độc lập và đấu tranh cho dân chủ nhân quyền, ra đời vào năm 2014 ở Việt Nam, với hơn 70 nhà báo tự do, hoạt động hoàn toàn độc lập về quan điểm và nội dung, không phụ thuộc vào chính quyền về đường lối quan điểm, nhân sự và tài chính.
Hội Nhà báo độc lập Việt Nam và cá nhân tôi đặc biệt quan tâm đến Hiệp Định Thương Mại Tự Do giữa Liên Âu và Việt Nam (EVFTA) và Hiệp Định Bảo Vệ Đầu Tư (IPA) mà Liên minh châu Âu (EU) đã ký và có thể sẽ xem xét việc phê chuẩn với Việt Nam. Chúng tôi đã có rất nhiều bài viết nghiên cứu và phân tích, đăng trên trang web của Hội Nhà báo độc lập Việt Nam là vietnamthoibao.org và nhiều trang mạng khác, nêu rõ quan điểm việc ký kết, phê chuẩn và triển khai hai hiệp định này cần được bắt đầu từ việc chính quyền Việt Nam phải cải thiện một cách có thể chứng minh được các vấn đề nhân quyền liên quan đến các công ước quốc tế về lao động, công đoàn độc lập, tự do tôn giáo, tự do báo chí, tự do lập hội, xã hội dân sự, tù nhân lương tâm…
Cho tới nay, tôi vẫn ngạc nhiên không biết vì nguyên do đặc biệt nào mà một số quan chức của EU lại tỏ ra vồ vập EVFTA và IPA, luôn tìm cách thúc đẩy để hai hiệp định này được ký kết và phê chuẩn sớm nhưng lại không hề quan tâm đến khía cạnh mất cân bằng nghiêm trọng trong cán cân thương mại EU - Việt Nam, và đặc biệt là không quan tâm đến cải thiện nhân quyền - là nội dung quan trọng nằm trong hai hiệp định này và cũng nằm trong tiêu chí của EU về tăng cường dân chủ ở các nước trên thế giới.
Khác với cách đánh giá của chính quyền Việt Nam và một số quan chức EU cho rằng có EVFTA và IPA sẽ làm gia tăng đáng kể lợi ích kinh tế cho EU, tôi cho rằng thực tế đã chứng minh ngược lại: trong quan hệ thương mại song phương và đa phương giữa EU và Việt Nam trong nhiều năm qua, hầu như năm nào EU cũng phải nhập siêu từ Việt Nam đến 20 - 25 tỷ USD, và giá trị nhập siêu này ngày càng tăng theo thời gian. Nếu xét trên phương diện lợi thế so sánh về kinh tế, rõ ràng giá trị nhập siêu quá lớn này cho thấy EU không phải là đối tác được hưởng lợi đáng kể, mà ngược lại EU phải chịu thiệt thòi đáng kể trong giao thương với Việt Nam. Có chăng, chỉ là một nhóm nhỏ trong các doanh nghiệp của EU làm ăn với Việt Nam được hưởng lợi và hưởng lợi đặc biệt từ chuyện buôn bán này.
Tôi tự hỏi phải chăng nhiều dư luận từ trước tới nay là có cơ sở đáng tin cậy khi đề cập một số doanh nghiệp thuộc EU đã thông qua một số quan chức EU và người đứng đầu của Phái đoàn EU tại Việt Nam - ông Bruno Angelet (vừa hết nhiệm kỳ tại Việt Nam vào năm 2019) để vận động Ủy ban Thương mại quốc tế châu Âu, Hội đồng châu Âu và Quốc hội châu Âu cho ký kết và phê chuẩn EVFTA và IPA nhưng bỏ mặc tình trạng vi phạm nhân quyền cực kỳ nghiêm trọng của chính quyền Việt Nam.
Và phải chăng luận điểm của một số quan chức EU cho rằng nếu không có EVFTA sẽ thiệt thòi lớn cho doanh nghiệp châu Âu chỉ nên hiểu là về thực chất, đó chỉ là sự thiệt thòi cho một nhóm nhỏ, chứ không phải tất cả, doanh nghiệp thuộc EU?
Vào tháng 10 năm 2018, ngay sau khi chính quyền Việt Nam phải cử một phái đoàn đến Bruxelles để điều trần về nhân quyền - EVFTA, ông Bruno Angelet - Trưởng phái đoàn EU tại Việt Nam - đã vào Sài Gòn và có một cuộc gặp với tôi và một luật sư nhân quyền là Lê Công Định. Khi đó, chúng tôi đã có phần hy vọng rằng rốt cuộc thì ông Bruno cũng bắt đầu chú ý tới việc cải thiện nhân quyền, khi trước đó ông ta hầu như rất ít gặp gỡ giới đấu tranh dân chủ nhân quyền ở Việt Nam. Nhưng nội dung cuộc gặp này lại khiến chúng tôi hết sức thất vọng, vì ông Bruno trong khi hoàn toàn không đề cập gì đến tình trạng vi phạm nhân quyền của chính quyền Việt Nam và việc cải thiện nhân quyền, thì lại gợi ý với chúng tôi rằng Việt Nam đã có tự do ngôn luận, tự do báo chí nên đề nghị chúng tôi viết theo hướng ủng hộ việc ký kết EVFTA và IPA (cũng có thể được hiểu là chúng tôi nên hạn chế viết bài phản bác việc ký hai hiệp định này do chính quyền Việt Nam vi phạm nhân quyền).
Tôi không biết Phái đoàn EU tại Việt Nam đã từng tham mưu cho EU ra sao về EVFTA, IPA và tình hình nhân quyền ở Việt Nam, mà chỉ biết rằng vào thời ông Bruno Angelet làm Trưởng phái đoàn EU tại Việt Nam, cơ quan này có lẽ là một trong những cơ quan đại diện ngoại giao của nước ngoài hoạt động mờ nhạt nhất về nhân quyền Việt Nam, hầu như không có tác động nào đến chính quyền Việt Nam về cải thiện nhân quyền, còn cá nhân ông Bruno lại là tâm điểm của nhiều dư luận về việc ông ta quá gần gũi với giới quan chức trong chính quyền Việt Nam, thường nói tốt cho chính quyền này trong khi né tránh các vụ đàn áp nhân quyền, đến mức ông ta bị xem là ‘thân chính quyền Việt Nam’. Điều này hẳn là một trong những nguyên nhân chính yếu dẫn đến hệ lụy là 8 cuộc đối thoại nhân quyền EU- Việt Nam trong những năm qua đã hầu như không có tác dụng gì. Chúng tôi có thể đánh giá rằng đến 95% những khuyến nghị của EU về cải thiện nhân quyền trong những năm qua đã bị chính quyền Việt Nam bỏ qua, sau khi hứa hẹn ngọt lịm. Một vài nội dung mà chính quyền Việt Nam thực hiện về nhân quyền và khoa trương với quốc tế chỉ là giới tính - một vấn đề vô thưởng vô phạt mà không làm ảnh hưởng gì tới chân đứng chính trị của chế độ độc đảng và độc tài ở Việt Nam.
Có một vài hoạt động mà có thể mang dấu ấn đóng góp của EU như vận động chính quyền Việt Nam trả tự do cho hai tù nhân lương tâm là Luật sư Nguyễn Văn Đài và Blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh vào năm 2018. Song chính quyền Việt Nam lại bắt bù, tức thả một người thì bắt lại và xử án tù từ 10 - 20 người bất đồng chính kiến khác. Chỉ tính riêng từ đầu năm 2019, khi chính thức áp dụng Luật An ninh mạng, cho tới nay chính quyền Việt Nam đã tống giam đến 18 người bất đồng chính kiến chỉ vì họ phải đối những chính sách bất công và của chính quyền và nạn tham nhũng của các quan chức chính quyền. Về thủ đoạn ‘bắt bù’ như thế, chính ông Tom Malinowsky - Trợ lý ngoại trưởng Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ về dân chủ, lao động và nhân quyền, và là Trưởng đoàn đối thoại nhân quyền Mỹ - Việt vào năm 2015, là người nắm rất rõ và đã từng phải phản ứng ra mặt đối với thủ đoạn ấy.
Chúng tôi cũng đã nghe được những nguồn tin từ trong nội bộ đảng cầm quyền ở Việt Nam về việc chính quyền này rất coi thường bản lĩnh của EU trong các cuộc đối thoại hàng năm EU - Việt Nam về nhân quyền. Rất thường là chính quyền Việt Nam chỉ cử một quan chức bậc trung (cấp vụ trưởng) và hoàn toàn không có thẩm quyền quyết định để gặp phái đoàn EU. Quan chức này đưa ra những hứa hẹn ngọt ngào mà có thể làm cho các thành viên đoàn EU hài lòng, nhưng sau đó Việt Nam không thực hiện, hoặc chỉ thực hiện rất ít những khuyến nghị về nhân quyền của phái đoàn EU. Còn trong cung cách đối xử với bất đồng chính kiến trong nước, rõ ràng chính quyền Việt Nam đã làm ngược lại những khuyến nghị của EU.
Vào giữa tháng Mười Một năm 2018, Quốc hội châu Âu đã ban hành nghị quyết về nhân quyền Việt Nam mang số hiệu 2018/2925 (RSP). Đây là nghị quyết rất rộng và sâu, văn phong mạnh mẽ, đề cập đến hầu hết những vấn đề vi phạm nhân quyền ở Việt Nam trong các lĩnh vực lao động, tự do tôn giáo, tự do báo chí, tự do ngôn luận trên mạng Internet, tù nhân lương tâm... và yêu cầu chính quyền Việt Nam phải cải thiện nhân quyền ngay. Bản nghị quyết này đã gây ấn tượng mạnh và tạo nên hy vọng lớn trong giới đấu tranh dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam. Nhưng cho đến ngày 30 tháng Sáu năm 2019 khi hai hiệp định EVFTA và IPA được Ủy ban Thương mại quốc tế châu Âu ký với Việt Nam tại Hà Nội, chỉ mới một phần rất nhỏ trong toàn bộ nội dung của bản nghị quyết về nhân quyền này được phía Việt Nam đáp ứng.
Trước yêu cầu phải ký 3 công ước quốc tế còn lại của Tổ Chức Lao Động Quốc Tế (ILO), chính thể Việt Nam đã chỉ mang ra quốc hội bàn việc ký và phê chuẩn Công Ước 98 về thỏa ước lao động, là định chế mà về thực chất không có ảnh hưởng gì đến nền chính trị độc tài. Còn hai công ước quốc tế còn lại về lao động là Công Ước 105 về chống cưỡng bức lao động, và đặc biệt Công Ước 87 – công ước then chốt quy định bắt buộc về quyền của người lao động được tự do thành lập công đoàn độc lập – lại bị chính quyền Việt Nam treo đến năm 2023 hoặc năm 2025. Nhưng chẳng có gì chắc chắn là đến năm đó Công Ước 87 sẽ được ký và nhất là sẽ được thực hiện một cách nghiêm túc.
Cần chú ý rằng trong quan điểm của chính quyền Việt Nam, công đoàn độc lập bị xem là ‘phản động’ nhất và khiến chính quyền này lo sợ nhất, vì Việt Nam luôn so sánh đồng dạng công đoàn độc lập với Công đoàn Đoàn kết cùng hành động ‘lật đổ chính quyền’ ở Ba Lan vào những năm 80 của thế kỷ XX. Việc Việt Nam kéo lùi thời điểm ký Công ước 87 về thực chất là một thủ thuật câu giờ và hy vọng sẽ làm cho EU và Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) nản lòng mà không đòi hỏi Việt Nam phải ký Công ước 87 nữa.
Trong khi đó, việc Việt Nam sửa đổi Bộ Luật Lao Động và Luật Công Đoàn cũng trí trá và ma mãnh không kém khi dự thảo này tuyệt đối không đề cập đến khái niệm “công đoàn độc lập,” trong khi dựng lên một núi thủ tục hành chính để làm nản lòng những công nhân muốn tự tay thành lập công đoàn phi nhà nước.
Cũng trong khi đó, không khí đàn áp nhân quyền ở Việt Nam vẫn đặc sệt như một thùng thuốc súng. Công an Việt Nam vẫn liên tiếp bắt bớ và hành hung dã man những người hoạt động nhân quyền và xã hội dân sự, bắt bớ và giam cầm từ nghệ sĩ làm phim về dân oan đất đai cho đến những phụ nữ chống BOT bẩn… Vẫn chưa có bất kỳ một dấu hiệu nào cho bất kỳ một “cải thiện nhân quyền” nào, dù chỉ mang tính mị dân hoặc để đối phó với cộng đồng quốc tế…
Vào lúc này và khi thời điểm Nghị viện châu Âu xem xét bỏ phiếu EVFTA đang đến gần - có thể sẽ diễn ra vào tháng 2 năm 2020, chính thể độc tài ở Việt Nam đang tìm cách thúc giục EU sớm phê chuẩn EVFTA, nhưng sẵn sàng qua mặt EU thêm một lần nữa bằng những hứa hẹn ‘sẽ cải thiện nhân quyền’ hoàn toàn đầu môi chót lưỡi.
EVFTA và IPA là đặc biệt cần cho Việt Nam, trong bối cảnh từ nhiều năm qua Việt Nam chỉ có thể xuất siêu sang thị trường EU (khoảng 20 - 25 tỷ USD/năm) và sang thị trường Hoa Kỳ (khoảng 35 - 40 tỷ USD/năm), nhưng lại phải nhập siêu lớn từ các thị trường khác như Hàn Quốc (khoảng 25 tỷ USD/năm) và đặc biệt là nhập siêu từ Trung Quốc (gần 50 tỷ USD/năm). Và trong bối cảnh ngân sách Việt Nam đang thiếu trầm trọng ngoại tệ để trả nợ nước ngoài…
Vào lúc này, quá nhiều khó khăn kinh tế đã tích tụ và chồng chất để trở thành nỗi bế tắc được định dạng ngay trên gương mặt của đảng Cộng Sản Việt Nam. Nếu không khẩn cấp tìm ra lối thoát kinh tế và tài chính, chẳng mấy năm nữa đảng sẽ không còn tiền nuôi đội ngũ công chức viên chức lên đến gần ba triệu người, cùng một lực lượng vũ trang và bán vũ trang hoặc chỉ biết đàn áp quyền làm người của dân chúng, hoặc chỉ lo làm “kinh tế quốc phòng” mà chẳng hề bảo vệ ngư dân Việt trong lúc tàu Trung Quốc hùng hổ tấn công, hành hung và bắn giết.
Trong toàn bộ bức tranh u tối kinh tế ở Việt Nam đương đại, EVFTA và IPA là lối thoát được Bộ Chính Trị đảng ở Việt Nam kỳ vọng nhất.
Nhưng những bằng chứng không thể chối cãi về vi phạm nhân quyền, cộng với tình trạng đàn áp bất đồng chính kiến ngày càng leo thang của chính thể độc tài ở Việt Nam là một thực tế trần trụi và đau đớn mà nhiều nghị sĩ EU không nên bỏ qua khi cân nhắc bỏ phiếu có thông qua hay không Hiệp Định EVFTA và IPA. Một cái gật đầu dễ dãi của Nghị viện châu Âu đối với EVFTA và IPA sẽ phủ nhận toàn bộ bản nghị quyết nhân quyền Việt Nam của chính cơ quan này, khiến uy tín lẫn hình ảnh của Nghị viện châu Âu bị giảm sút không ít trong đánh giá của cộng đồng quốc tế.
Vào tháng 2 năm 2019, Hội đồng châu Âu đã từng thông báo hoãn việc ký kết EVFTA và IPA. Ngay trước sự kiện này là một thư kiến nghị của 18 tổ chức xã hội dân sự quốc tế và Việt Nam đề nghị EU hoãn ký kết hai hiệp định thương mại do chính quyền Việt Nam hầu như không có sự thay đổi nào theo hướng tiến bộ về nhân quyền. Nhưng chỉ sau đó vài tháng, khi chính quyền Việt Nam đưa Công ước 98 về lao động ra quốc hội nước này để phê chuẩn, dường như Hội đồng châu Âu đã hài lòng quá sớm, từ đó dẫn đến việc co quan này chấp thuận cho Ủy ban Thương mại quốc tế châu Âu ký kết EVFTA và IPA với Việt Nam vào tháng 6 năm 2019. Tuy nhiên thái độ quá dễ dãi và có phần vội vã của Hội đồng châu Âu đã có câu trả lời: từ đó đến nay, bức tranh đàn áp nhân quyền ở Việt Nam ngày càng xám xịt.
13 năm sau sự kiện “Việt Nam được Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO) chấp thuận cho trở thành thành viên thứ 150,” kịch bản “vào trước, bắt sau” hầu như đang tái hiện ở Việt Nam. Vào năm 2006, chính thể Việt Nam đã nhún mình giảm bớt đàn áp và bắt bớ giới nhân quyền và bất đồng chính kiến để tiếp đón Tổng Thống Mỹ George Bush tại Hà Nội, và sang năm 2007 Việt Nam được Mỹ nhấc khỏi CPC (Danh sách các quốc gia cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo), tức được giảm cấm vận kinh tế và được hưởng những điều kiện ưu đãi về vay tín dụng và viện trợ không hoàn lại của quốc tế. Nhưng chỉ một năm sau đó, từ năm 2008 trở đi, công an Việt Nam liên tiếp gia tăng tống giam người bất đồng như một kiểu “bắt bù”. Các nhà tù Việt Nam chật kín tù chính trị với con số bị bắt và bị xử tù lên đến nửa trăm người mỗi năm.
Còn lần này là EVFTA và IPA. Rất nhiều dấu hiệu trong thời gian gần đây cho thấy chính quyền Việt Nam đang chờ được Quốc hội châu Âu phê chuẩn EVFTA và IPA là sẽ ra tay, với cường độ cao hơn hẳn tình trạng ‘bắt hạn chế’ vào lúc này, để bắt bớ hàng loạt tiếng nói bất đồng chính kiến trong nước, đặc biệt là những người dám phản đối Việt Nam vào EVFTA do vi phạm nhân quyền, và tiếp tục xử án tù nặng nề các công dân yêu nước dám phản kháng Trung Quốc.
Vì những lý do trên đã trở nên quá cấp bách, tôi tha thiết kiến nghị với Quốc hội Liên minh châu Âu hoãn phê chuẩn hai hiệp định EVFTA và IPA, cho tới lúc nào chính quyền Việt Nam có được những cải thiện nhân quyền có thể chứng minh được, và chứng minh đã tuân thủ một cách nghiêm túc nghị quyết nhân quyền Việt Nam số 2018/2925 (RSP) của Quốc hội châu Âu.
Tôi chịu trách nhiệm về những thông tin, số liệu và nhận định trong thư kiến nghị này.
Chân thành cám ơn các ông/bà trong Quốc hội châu Âu.
Việt Nam ngày 10 tháng 11 năm 2019
Phạm Chí Dũng
Nhà báo độc lập, Chủ tịch Hội Nhà báo độc lập Việt Nam
Hiện sống ở thành phố Sài Gòn, Việt Nam
Email: phamchidungthuongson@gmail.com
------------------------------
English version:
Vietnam, 10 November , 2019
PETITION TO POSTPONE THE RATIFICATION OF THE EVFTA AND IPA
To:
Mr. David Sassoli, President of European Parliament
Mr. Bernd Lange, Chairman of European Parliament's International Trade Committee
Mr. David MacAllister, Chairman of the European Parliament's Foreign Affairs Committee
Mrs. Maria Arena, Chair of Subcommittee on Human Rights at the European Parliament
Mr. Tomas Tobé, Chairman of Committee on Development
European Parliament’s Departments
Subject: Postponing the ratification of the EU-Vietnam Free Trade Agreement (EVFTA) and Investment Protection Agreement (IPA)
I am Pham Chi Dung, independent journalist - Chairman of Independent Journalists Association of Vietnam (IJAVN). Founded in 2014, the association is an civil organization consisting of more than 70 journalists and operates independently.
IJAVN and I keenly concern about the signed EU-Vietnam Free Trade Agreement (EVFTA) and Investment Protection Agreement (IPA) and their coming ratification. Having published many researches and posts on our website (www.vietnamthoibao.org ), we expect that the regime of Vietnam would improve its poor human rights records; ratify International Labour Organization (ILO) Convention 87 on the right to organize, 98 on collective bargaining, and 105 on the abolition of forced labor; respect the rights to freedom of press, religions and association; prisoners of conscience; etc as its commitments to the EU.
I am wondering why some of EU representatives are too eager to have EVFTA and IPA ratified regardless of the EU trade deficit with Vietnam and human rights violations whereas human rights improvement is the core value of the agreements and also part of the EU’s supports to democracy around the world.
The EU trade deficit with Vietnam widened annually and up to 20-25 billion dollars. As the trade deficit reflects, Vietnam is likely to be the main beneficiary of EU-Vietnam trade deals but not the EU. There might be only a small group of EU companies but not all EU business benefiting from the agreements.
It is alleged that a number of particular EU business groups had the EVFTA and IPA lobbied by the former head of the Delegation of the European Union to Vietnam Bruno Angelet and some EU representatives, but neglect the serious human rights abuses of the Vietnamese government.
In October 2018, after the hearing of Vietnam delegation on human rights - EVFTA in Brussels, the former head of the Delegation of the European Union to Vietnam Bruno Angelet had met with lawer Le Cong Dinh and me in Saigon. By then we did hope that Mr. Bruno Angelet would finally have paid attention to human rights situations in Vietnam since he had hardly met up with any right activists or dissidents.
However, we were totally disappointed with the outcome of the meeting. Mr. Bruno Angelet did not mention the poor human rights records nor the need to improve human right situations. Instead, Mr. Bruno Angelet stated that Vietnam had granted freedom of press and expression, and then suggested that we should have written more articles to support EVFTA and IPA. In other words, we should not have published articles to oppose the agreements due to human rights violations.
I have not known how the Delegation of the European Union to Vietnam advised the EU on EVFTA, IPA and human rights situation in Vietnam. However, during Ambassador Bruno Angelet’s tenure, the Delegation had put few pressure on Vietnamese regime to improve human rights situation. Ambassador Bruno Angelet himself seemed too closed to Vietnamese authorities, often praised the regime and hardly mentioned human rights violations. Some considered the Ambassador as a “ good friend of the Vietnam’s regime.”
This might be one of the reasons that made the 8 EU-Vietnam human rights dialogues in the recent years fruitless. I estimated roughly 95% of the EU recommendations on human rights being ignored or offering false promises. The only progress in human rights is supporting LGBT community and it did not affect the one-party ruled system and dictatorship in the country.
There are a number of activities that could mark the contribution of the EU as pressing Vietnam to released two prominent prisoners of Conscience - Nguyen Van Dai and blogger Nguyen Ngoc Nhu Quynh - in 2018. However, Vietnam intensified crackdowns against right activists and dissidents. Since the new Cyber Security Law came to effect in January 2019, Vietnam imprisoned 18 dissidents because they criticized the government and its corruption system. Assistant secretary of state for democracy, human rights and labor; and chairman of the US-Vietnam human rights dialogue in 2015 - Tomasz P. Malinowski knew clearly about this tactics and had opposed it.
From private source, it is said that Vietnam does not highly evaluate the EU stance on EU-Vietnam human rights dialogues. During these dialogues, Vietnam delegation usually was led by the Director general of International Organisations Department of the Vietnamese Ministry of Foreign Affairs who were not able to make any decisions. The head delegation seems to make all the promises to smooth the EU delegation but only a few of the promises would be kept. Vietnam’s crackdowns on dissidents sent out the signals that Vietnam do not take the EU’s recommendations on human rights issues.
In November 2018, European Parliament (EP) issued resolution on Vietnam, notably the situation of human rights (2018/2925(RSP)). The resolution addressed most of human rights violations in the country such as labor; freedom of religion, press, and expression on the internet, prisoners of conscience; and called for significant improvements. The local activists were impressed by the resolution and they were looking forwards changes in the political and right atmosphere. However, Vietnam had complied with only a minor part of the resolution by EVFTA and IPA were signed in Hanoi on June 30, 2019.
Hanoi has so far ratified International Labour Organization (ILO) Convention 98 on collective bargaining; and set timeline for the ILO Convention 87 on the right to organize, and Convention 105 on the abolition of forced labor between 2023 and 2025. There is no detailed timeline for ratification or any guarantee that Hanoi will meet their commitments.
Hanoi considers independent unions as “ reactionary” ideas because of the impact of Polish the trade union Solidarity on the fall of communist system in Poland in 1989. Vietnam's delay in signing the 87th Convention is essentially a timeless trick and hopes to frustrate the EU and the International Labor Organization (ILO) without requiring Vietnam to sign the 87 Convention again.
The term “independent trade union” is not included in the ongoing revision of Vietnam’s Labor Code and Trade Union Law but a complicated process for those who intend to found non state trade unions.
The violations of human rights is intensive and Hanoi hardly made any improvements in its human rights records. The police harassed and imprisoned rights activists, from a film producer who made films about land grabs victims to a female anti-BOT activist. There has not been any sign of any "human rights improvement", either demagogical or to deal with the international community …
The EU Parliament (EP) might consider to vote for EVFTA in February 2020 and Vietnam tries to have the EVFTA ratified. But Vietnam might again come up with their false promises on human rights.
Vietnam exported to the EU around 20-25 billion US and 35-40 billion US dollars to the U.S. Thus, the EVFTA and IPA are extremely important to Hanoi to balance its huge trade deficit with China and Korea which mounted to 50 billion US dollars and 25 billion US dollars respectively. And Vietnam is in need of foreign currencies to pay off its external debts.
The communist regime currently encounters too many challenges. If Hanoi can not export more, they will not be able to afford the three million state-employees, the People’s army, and Civil Defense Force. It is likely that the army focus more on human rights violations or on “ economic activities” but not on defending the fishermen against China on the South China Sea.
In the whole picture of economic gloom in contemporary Vietnam, the Political Bureau of the Central Committee Communist Party of Vietnam expects the EVFTA and IPA to increase the country’s GDP.
However, MEPs should consider Vietnam’s crucial human rights violations, intensified dissidents crackdowns before voting for the agreements. Any haste or easy votes for the agreements will affect the EP’s human rights resolution on Vietnam and the EU’s image.
The EU Council once postponed the ratification of the EVFTA and IPA in February 2019 after 18 NGOs called the EU to postpone consent to the agreements. A few months later, Vietnam deposit of the instrument of ratification of ILO Convention 98 (Right to Organise and Collective Bargaining Convention); and as a result, the EU and Vietnam signed the agreements on 30 June 2019. Hence, since then Vietnam again intensified rights crackdowns.
Thirteen years after Vietnam became the 150th member of the World Trade Organization, Vietnam repeated its “tactics”. In 2006, Vietnam made some progress on human rights to host the U.S. President George Bush in Hanoi; and then Vietnam was removed from the CPC list and joined the World Trade Organization in January 2007. One year later, 2008, Vietnam imprisoned more dissidents and convicted up to 50 political prisoners annually.
The regime is likely to jail more dissidents after the EU ratify the EVFTA and IPA. Prominent dissidents who opposes EVFTA due to Vietnam’s poor human rights records and those who stand up against China will receive heavy prison sentences.
With all the above-mentioned reasons, I would like to call the EP to postpone the ratification of the EVFTA and IPA until the Vietnam’s regime fulfills its commitments on human rights and proves that Vietnam complies with the resolution 2018/2925(RSP) issued by the EP.
I am fully aware of all the information, data, and comments represented in this letter.
Thank you for your attention.
Yours sincerely,
Pham Chi Dung
Independent Journalist, Chairman of Independent Journalists Association of Vietnam
Living in Saigon city, Vietnam
Email: phamchidungthuongson@gmail.com
6h30 Sáng 13/12/19 Mọi Rợ Hà Đông Hà Nội buộc Dân Oan phải gở bạt khi thời tiết đang rét lạnh
https://www.youtube.com/watch?v=4jwEhQcECo8
MENU
“Vì sao người Trung Quốc ngu thế?”
Tác giả: Li Ming (Triết gia Trung Quốc) | Biên dịch: Nguyễn Hải Hoành
Lời giới thiệu: Nhiều người cho rằng văn minh Trung Hoa có đóng góp quá nhỏ bé (xét về số dân) vào thành tựu của văn minh nhân loại, về khoa học tự nhiên cũng như khoc học xã hội. Tìm ra căn nguyên của tình trạng này là một vấn đề có tầm quan trọng đối với Trung Quốc, từng được một vài học giả phương Tây, hoặc phương Tây gốc Hoa bàn luận, nhưng dường như giới học giả Trung Quốc lại thiếu quan tâm vấn đề này, có lẽ vì họ không muốn nói tới các mặt tiêu cực của thể chế chính trị-văn hóa nước họ. Trong tình hình đó, cuốn “Vì sao người Trung Quốc ngu thế?” của triết gia Li Ming (Lê Minh, xuất bản 2003) thu hút được sự chú ý của dư luận. Dưới đây là bài nói của Li Ming tại ĐH Bắc Kinh về sách trên. Bài gồm 6 phần: 1) Vì sao người Trung Quốc là một dân tộc “vô học”? 2) Vì sao sự ngu dốt của người Trung Quốc là kết quả tất nhiên của sự lựa chọn không ngừng xuất phát từ lợi ích tự thân của kẻ thống trị các đời trước; 3) Vì sao người phương Tây trong xã hội cận đại lại trở nên thông minh? 4) Nghi ngờ về sự “thông minh” của người phương Tây trong thế kỷ 21; 5) Tình trạng ngu dốt và thông minh hiện nay của người Trung Quốc; 6) Sau thế kỷ 21, người Trung Quốc nên trở nên thông minh như thế nào? Dưới đây xin giới thiệu phần đầu.
Trong cuốn “Người Trung Quốc xấu xí”, ông Bá Dương đã xúc phạm mạnh đồng bào Trung Quốc (TQ), và bị họ chửi cho mất mặt, giờ đây tôi lại lấy thuyết “ngu dốt” ra để gây sự lần nữa thì chẳng phải là tự chuốc lấy quả đắng đấy ư? Thực ra không phải tôi thích gây sự, mà là do cổ họng tôi bị hóc xương, không lấy xương ra thì khó chịu. Lại còn một lý do nữa là TQ từ xưa tới nay có quá nhiều văn nhân tự khoe mình thông minh, làm cho những người TQ bình thường lâu nay cũng thường xuyên rơi vào đám sương mù dầy đặc tự cho mình là thông minh, mọi người đều mơ giấc mơ người TQ “thông minh”, dường như người nước ta đúng là đặc biệt có gene thông minh. Tiếc thay, mơ mộng rốt cuộc chỉ là mơ mộng. Trên thực tế, người TQ có đúng là thông minh như thế không? Song le thông minh là gì, ngu dốt là gì?
Tôi cho rằng đó chỉ là kết luận rút ra được từ sự so sánh với các chủng loại người khác. Quan điểm của tôi là: trong sự so sánh đó, chủng loại người nào có thể cung cấp cho nền văn minh của toàn nhân loại những nhà tư tưởng lớn, nhà khoa học lớn, nhà công nghệ lớn, nhà nghệ sĩ lớn đẳng cấp thế giới, thì chủng loại người ấy là thông minh. Ngược lại, là chủng loại người ngu dốt.
Nói cách khác, qua so sánh, chủng loại người nào giỏi hơn về khám phá các quy luật mới (về tự nhiên, xã hội, tâm lý loài người), về phát minh công nghệ mới (tư duy, công cụ, máy móc), sáng tạo các tri thức mới (về khoa học, nghệ thuật), thì thuộc về chủng loại người thông minh. Ngược lại chủng loại người nào không giỏi, thậm chí không có thể khám phá quy luật mới, phát minh công nghệ mới, sáng tạo tri thức mới thì là không thông minh.
Dĩ nhiên, thông minh hoặc không thông minh, ngu dốt hoặc không ngu dốt đều mãi mãi ở trong quá trình biến động. Vì thế nên nói không có chủng loại người nào có số phận an bài là thông minh, cũng không có ai số phạn an bài là ngu dốt. Nhưng nếu mọi người tự mình kiên trì mãi mãi không biến đổi thì “ngu dốt” cũng có thể trở thành một loại số phận. Tôi vô cùng lo ngại người TQ trong tình hình trường kỳ giữ một truyền thống lịch sử “bất biến” sẽ thực sự có số phận như vậy.
Người TQ có thực sự thông minh không? Nếu người TQ thực sự thông minh như thế thì trong dòng sông lịch sử dài dằng dặc rốt cuộc họ đã cống hiến cho nền văn minh nhân loại được bao nhiêu nhà tư tưởng lớn, nhà khoa học lớn, nhà công nghệ lớn, nghệ sĩ lớn cấp thế giới, cung cấp được bao nhiêu khám phá lớn về quy luật, phát minh lớn về công nghệ và nghệ thuật, sáng tạo lớn về tri thức?
Nếu người TQ thực sự thông minh thì tại sao trong hơn 100 năm gần đây, về nhân cách chính trị lại luôn luôn bị người nước khác bắt nạt, về kinh tế toàn là bị người ta bóc lột, về văn hóa học thuật toàn là bị người ta phân biệt đối xử? Cái “thông minh” tự tâng bốc mình có thể biến thành thông minh thực sự được chăng? Rõ ràng không thông minh mà cứ tự tâng bốc mình thông minh, điều đó nên nói là ngu dốt thực sự.
Socrates ở thời cổ Hy Lạp được nhiều người cho là người thông minh nhất. Nhưng cái ông thích được tâng bốc hơn cả lại không phải là sự thông minh của mình, mà ông bao giờ cũng tự xưng: “Tôi biết sự vô tri của mình”. Cho nên Socrates là thủy tổ của phép biện chứng. Ông hiểu sâu sắc thực chất của sự việc con người sở dĩ “thông minh” không phải là ở bản thân sự thông minh mà là ở chỗ thực sự nhận thức được sự vô tri của mình và biết cách vượt qua sự vô tri đó. Trong lịch sử TQ có bao nhiêu sĩ đại phu và văn nhân dám công khai thừa nhận mình vô tri? Lại có bao nhiêu người đã nghiêm chỉnh khắc phục được sự vô tri của mình? Trên ý nghĩa này thực sự có thể nói chính là giới sĩ đại phu văn nhân trong các đời trước đã liên tục tạo ra sự ngu dốt của người TQ. Sở dĩ hôm nay tôi phải lớn tiếng tuyên bố về sự “ngu dốt” của người TQ ngày xưa và ngày nay, thực ra là tôi vô cùng mong muốn người TQ trong tương lai sẽ trở thành “thông minh”.
Lịch sử mấy nghìn năm của TQ thực ra là lịch sử các sĩ đại phu văn nhân tự khoe “thông minh”. Các sĩ đại phu văn nhân “thông minh” trong các thời đại trước đây đã để lại cho người TQ ngày nay những trước tác có tới hàng tỷ chữ, trong đó nổi tiếng nhất có bộ Nhị thập tứ sử, Tư trị Thông giám, Vĩnh Lạc đại điển, Tứ khố toàn thư v.v… Tiếc thay nếu dùng chiếc cân tri thức lý tính của con người hiện đại mà cân đo lượng văn bản lớn ấy thì phần tri thức của nó nhẹ tới mức làm người TQ cảm thấy đau khổ, chỉ đáng một phần vạn lượng tri thức ngày nay. Có một điểm càng làm cho người ta không thể không ghi nhớ là nếu ai hiện nay vẫn vùi đầu vào núi văn bản ấy thì người đó sẽ được nhân bản thành một vị văn nhân tự khoe “thông minh’ của TQ. Các vị văn nhân tự khoe “thông minh’ của TQ trong các thời đại trước đây chính là được nhân bản từ núi thư tịch ấy. Chính vì thế mà xã hội và lịch sử TQ cũng được nhân bản lặp đi lặp lại vô cùng giống như thời xưa, thậm chí như nhau. Chỉ trong một trăm năm gần đây mới có chút thay đổi, nhưng phần cốt lõi thì vẫn khá cứng — tức giới văn nhân TQ cho đến nay vẫn chưa nhận thấy sự vô tri của mình và tại sao lại vô tri, khắc phục sự vô tri như thế nào. Điều này đúng là thực sự ngu dốt.
Sự ngu dốt của người TQ trước hết, hoặc về căn bản, vẫn là sự ngu dốt của giới sĩ đại phu văn nhân nước này. Văn nhân các triều đại trước đây đã làm ra rất nhiều thư tịch có hàm lượng tri thức cực nhỏ — Kinh, Sử, Tử, Tập. Văn nhân TQ ngày nay vẫn tiếp tục làm ra rất nhiều văn bản loại ấy, tạo ra một lượng lớn rác rưởi văn tự trong toàn bộ nền văn minh TQ. Trước kia Lỗ Tấn từng đau khổ cảnh báo thanh thiếu niên TQ cần bớt đọc, thậm chí không đọc sách do văn nhân TQ viết. Qua đây có thể thấy ông sớm hiểu rõ tính nghiêm trọng tồn tại trong núi rác văn tự của nền văn minh TQ. Chính là sự nhân bản lặp lại núi rác rưởi văn tự ấy đã lấp kín con đường trí tuệ của bao nhiêu thế hệ người TQ. Thứ đầu tiên được chế tạo với khối lượng lớn là sự ngu dốt của văn nhân TQ, sau đó nó khuếch đại thành sự ngu dốt của người TQ. Đó là số phận sự ngu dốt của người TQ trong hơn hai nghìn năm qua, nhất là trong 500 năm gần đây, và đặc biệt là 200 năm nay.
Tác giả đã sống được ngót 60 tuổi, làm học giả trong khoảng 20 năm, cho tới nay mới chợt tỉnh ngộ biết rằng “học” là gì. Sự tỉnh ngộ ấy cũng làm cho tôi bỗng dưng rơi vào một nỗi buồn sâu sắc: người TQ (dân tộc Trung Hoa) có lịch sử văn minh 5 nghìn năm mà chẳng lưu lại bao nhiêu thứ thực sự đáng để hậu thế học tập. Là một học giả hiện đại TQ tôi vô cùng đau khổ phát hiện thấy người TQ chúng ta vốn dĩ căn bản chưa hiểu thế nào mới là “học” đích thực, do đó mà đến nỗi hầu như vô “học”.
Điều đó thực ra không khó kiểm chứng. Chỉ cần mời mọi người đọc lại một lượt toàn bộ các giáo trình tiểu học, trung học, đại học, viện nghiên cứu sinh, xem xem trong số những kiến thức đáng gọi là “học” dạy cho học sinh, rốt cuộc có bao nhiêu cái là do người TQ chúng ta khám phá, phát minh và sáng tạo.
Kết quả ra sao? Có thể nói, ngoại trừ những thứ như ngữ văn TQ, y dược TQ, sân khấu, thư, họa TQ — số lượng các kiến thức thổ sản ấy đã cực ít lại cũng khó có thể gọi là “học” mà chỉ có thể gọi là “thuật” — hầu như 9999 phần vạn các kiến thức còn lại đều là “sản phẩm du nhập qua đường biển” từ phương Tây. Trong các lĩnh vực như thiên văn, địa chất, địa lý, toán học, vật lý, hóa học, sinh vật, tâm lý, triết học, khoa học xã hội (chính trị học, kinh tế học, xã hội học, pháp học, luân lý học, tân văn học….) thì người TQ chúng ta có truyền thống 5000 năm lịch sử lâu đời và chiếm tỷ lệ số dân nhiều nhất thế giới, rốt cuộc sáng tạo được môn học nào, khoa học nào? Chúng ta lại có ưu thế rõ rệt ở lĩnh vực nào vậy? Thậm chí người Nhật cũng có thể cười chế nhạo chúng ta “Đôn Hoàng ở TQ nhưng Đôn Hoàng học thì lại ở Nhật”.
Bình tĩnh tự xét mình, nên thừa nhận là trong nền văn minh TQ 5000 năm, chúng ta có chữ “học” động từ (học hỏi, học ở chỗ hỏi, vậy hỏi ai? Hỏi trời, hỏi các đại nhân, hỏi các thánh nhân) mà không có chữ “học” danh từ (môn học, khoa học, những tri thức có năng lực sinh trưởng kéo dài, có sinh mạng riêng, tự làm thành hệ thống).
Nhìn tổng quát xưa nay, chúng ta có quan trắc thiên văn nhưng không có môn thiên văn học; có khảo sát địa lý (như Từ Hạ Khách du ký…) nhưng không có địa chất học, địa lý học; có trồng trọt thực vật, vận dụng thực vật nhưng không có thực vật học; có dạy thú và sử dụng động vật nhưng không có động vật học (phương pháp dùng trong các môn động vật học, thực vật học hiện nay vẫn dùng phương pháp phân loại hệ thống do người phương Tây phát minh); có tính toán con số cụ thể nhưng không có toán học trừu tượng; có Tứ đại phát minh nhưng không có vật lý học, hóa học; có kiến trúc cầu hầm nhà nhưng không có cơ học kiến trúc (vật liệu, công trình, kết cấu); thậm chí ta có ngôn ngữ, chữ viết, hội họa, âm nhạc, nhưng không có các môn học thành hệ thống như ngôn ngữ học, ngữ pháp học, tư từ học (Thuyết văn giải tự của Hứa Thận là một bộ tự điển, Mã thị văn thông là sản phẩm sau khi học ngữ pháp học của phương Tây, Lục thư pháp tắc chưa hình thành nguyên lý nghiêm chỉnh), mỹ thuật học (hội họa TQ không có thấu thị học, sắc thái học…), âm nhạc học (tuy rằng Chu Tải Dục đời Minh đầu tiên phát hiện thập nhị bình quân luật nhưng không làm nó trở thành hòa thanh học, âm luật học v.v…).
Sau hơn 20 năm làm học giả TQ, tới nay tôi mới bừng tỉnh dậy sau giấc mơ lớn: người TQ chúng ta tự xưng có nền văn minh truyền thống cổ xưa 5000 năm nhưng lại là một nền văn minh vô “học”.
Thưa đồng bào, chẳng lẽ quý vị không cảm nhận được điều đó ư? Tứ đại phát minh của ta cố nhiên vĩ đại đấy nhưng đều chỉ là “thuật” mà thôi, hơn nữa lại là kỹ thuật khá thô sơ do tiền nhân thời xưa phát hiện và phát minh ra trong trải nghiệm cuộc sống trực tiếp tiếp xúc với thiên nhiên, những cái đó chưa được nâng lên thành “học”, cũng tức là chưa biến thành tư duy lý luận trừu tượng, thành học thuyết giải thích quy luật của sự vật. Chẳng hạn thuốc súng trong Tứ đại phát minh , thành phần vật chất (nguyên tố) của nó là gì? Tính chất hóa học thế nào? Nguyên lý gây nổ của nó là gì? Lại nói kim chỉ nam trong Tứ đại phát minh vì sao nó mãi mãi chỉ về phương Nam (hoặc Bắc), rốt cuộc từ tính là gì? Tất cả những cái đó đều phải chờ đến sau này khi người phương Tây tiến hành tư duy lý luận trừu tượng mới có được nhận thức. Trên tất cả các mặt, người TQ chúng ta hầu như chỉ dừng bước không tiến tiếp ở “thuật” mà thôi, vì thế nên thành tích trong lĩnh vực “học” cực kỳ nhỏ bé, quả thật có thể nói là vô “học”.
“Học” với ý nghĩa môn học, là gì vậy? Điều quan trọng là ở chỗ có lý luận trừu tượng cao độ, lý luận đó có thể giải thích hiện tượng đã có của sự vật, lại có thể mô tả một cách trừu tượng quy luật phát sinh của hiện tượng, vì thế không những có thể giải thích cụ thể sự vận hành thực tế lúc đó của sự vật mà còn có thể dự đoán trạng thái và sự biến đổi của sự vật trong tương lai, và được kiểm chứng hoặc chứng thực, hoặc chứng ngụy trong thực tiễn sau đó.
Một trong những tiền đề quan trọng nhất để xây dựng lý luận là phải nắm được quy luật tư duy logic cơ bản nhất. Hơn hai nghìn năm qua, nhất là 200 năm gần đây, nền giáo dục người TQ từ nhỏ được tiếp thụ chỉ có sự nhồi nhét Tứ thư Ngũ kinh, xưa nay chưa bao giờ biết logic là cái gì, sĩ đại phu-văn nhân còn như vậy, nói gì tới đông đảo dân chúng mù chữ. Tại TQ còn có một điểm đặc biệt làm đứt đoạn nền văn minh — đó là sự tách rời hầu như tuyệt đối giữa người lao động phổ thông với tầng lớp văn nhân biết đọc biết viết.
Hầu như toàn bộ những người TQ tiếp xúc với thiên nhiên và có kinh nghiệm lao động sản xuất đều không biết đọc biết viết, nhưng giới văn nhân TQ biết đọc biết viết lại hầu như căn bản không tiếp xúc với thiên nhiên. Nói khác đi nghĩa là từ xưa tới nay cái đầu (tư duy) và cái tay (thực tiễn) của người TQ hầu như bị tách rời tuyệt đối. Cộng thêm tư duy của văn nhân TQ lại về căn bản thiếu mất sự huấn luyện của tính quy luật logic có ý thức, qua đó tạo nên sự tách rời tuyệt đối giữa “thuật” với “học”. Do sự đứt rời song trùng ấy mà cho dù chưa xét tới còn có nhiều nhân tố khác vô cùng bất lợi như chế độ xã hội, tập tục… thì cũng đã ngăn trở vô cùng nghiêm trọng con đường phát triển trí tuệ của người TQ rồi. Đó dường như là số phận ngu dốt của người TQ trong mấy nghìn năm qua, nhất là trong 200 năm gần đây.
Sự tách rời giữa đầu óc với tay chân trong văn hóa truyền thống TQ, cũng tức là tách rời giữa tư duy và thực tiễn, cùng sự xa lạ giữa tư duy với logic của văn nhân TQ, đã tạo ra sự “học” của người TQ: hầu như duy nhất chỉ có cái “học” hỏi mà căn bản không có sự học hiểu, suy luận, giải thích, càng chưa thể nói tới sự học sáng tạo kiến trúc cấu tạo của tư duy logic trừu tượng.
Tứ thư Ngũ kinh và những thứ tràn ngập thành tai họa hơn nữa như Kinh, Sử, Tử, Tập, hầu như toàn bộ đều là sự học hỏi. Văn hóa truyền thống TQ chỉ có sự học-hỏi, cộng thêm sự tách rời giữa đầu (tư duy) với tay (thực tiễn) và tiếp tục tạo ra sự đứt rời giữa “học” đích thực với “thuật” đã nói ở trên, — sự đứt rời song trùng ấy trên thực tế đã tạo nên sự vô “học” của người TQ từ xưa tới nay.
Trải qua quá trình Tây học truyền vào TQ trong 100 năm gần đây, TQ ngày nay cũng chỉ có cái “học” đi theo cái “học” của phương Tây mà về cơ bản chưa có cái “học” của bản thổ. Chính vì thế mà các “học nhân” của TQ ngày nay, trong quá trình học sẽ cảm thấy một cách nặng nề rằng mình đã mắc phải chứng “mất tiếng nói”. Hầu như mọi từ ngữ, khái niệm về “học” đều du nhập từ phương Tây, mà không có liên quan chút nào với truyền thống văn hóa bản xứ của chúng ta. Miệng là của người TQ nhưng nội dung lời nói lại là những điều trải qua sự suy nghĩ nghiền ngẫm của người phương Tây. Giấy viết, sách vở, truyền thông là phương tiện của bản xứ (song máy móc làm giấy, làm sách và thiết bị truyền thông cũng có thể của phương Tây), nhưng mọi đạo lý, quy phạm, quy tắc, quy luật… được sách báo truyền thông nói tới đều là những thứ người phương Tây phát hiện, phát minh và sáng tạo. Trong tình hình này chúng ta còn có thể nói người TQ không “ngu dốt” ư? Nếu còn muốn tự khoe mình “thông minh” kiểu AQ thì chúng ta lại “thông minh” ở chỗ nào vậy?
Khi phân tích kỹ nền văn minh 5000 năm của TQ, có một môn tri thức có thể gọi là “học” được — đó là “Trung Y học” [Y học Trung Hoa]. Có lẽ cũng chỉ trong lĩnh vực “Trung Y học”, người TQ có thể để lại cho nhân loại một thứ duy nhất có thể gọi là “lý luận” của mình. Đó là lý luận “Âm dương ngũ hành”. Tiếc thay tuy đây là thứ lý luận duy nhất trên thế giới có thể gọi là lý luận của người TQ, thuộc loại sánh được với lý luận logic của phương Tây, nhưng kể từ khi nó xuất hiện cách đây hơn 2000 năm, trong quãng thời gian dài dằng dặc sau đó, thứ lý luận ấy không hề có chút tiến triển nào. Người TQ không hề nghĩ tới chuyện nên tiếp tục cải thiện, đẩy mạnh lý thuyết này, mà chỉ mù quáng sùng tín nó, làm theo nó. Cuối cùng lý thuyết ấy chẳng những chưa được cải thiện mà ngược lại ngày càng trở nên cũ rích, xơ cứng. Cho tới nay số người TQ tiếp thụ lý luận logic của phương Tây ngày càng tăng lên, họ chỉ có thể coi thường thuyết Âm dương Ngũ hành, phỉ nhổ thuyết đó, thậm chí vu khống nó, coi là thứ lạc hậu, mê tín, thuộc cùng loại với thuật phù thủy.
[…..]
Xin trở lại vấn đề trước đây, đi tìm nguồn gốc tại sao người TQ trong lịch sử lại vô “học”. Hiện nay có thể đã rất rõ ràng, đó là do trong lịch sử dài lâu, người TQ chưa tự mình sáng lập được một cơ sở có thể đặt nền móng cho tất cả mọi thứ “học”, cái cơ sở mà người phương Tây cận-hiện đại dựa vào để xây dựng hầu như tất cả mọi thứ “học” — Logic đối xứng nhị nguyên luận.
Nói rõ hơn, tức là logic hình thức, logic hình học, logic số lý, logic biện chứng … được từng bước hoàn thiện kể từ Aristotle, Euclid… Về bản chất, các logic này đều là logic tính đối xứng và nhị nguyên luận. Triết học phương Tây từ Plato trở đi, từ bản thể luận tới nhận thức luận, thứ được các triết gia phương Tây ra sức hoàn thiện là bản thân phương pháp tư duy logic đối xứng nhị nguyên luận. Chính là sự không ngừng hoàn thiện, phát triển của phương pháp logic phương Tây (từ triết học cổ đại) và sự kết hợp hữu cơ với phương pháp thực nghiệm có lựa chọn trong thời cận đại, đã sinh ra và xúc tiến các khoa “học” trên mọi lĩnh vực, mọi tầng nấc của phương Tây thời cận-hiện đại.
Hegel nói người TQ “không có triết học”. Chẳng may người TQ bị ông nói trúng. Đúng là người TQ không có triết học, mà điều đó lại ở chỗ người TQ không có logic — dĩ nhiên là nói logic đối xứng nhị nguyên luận. Các văn nhân nhiều đời trước của chúng ta chưa từng bỏ công sức vào việc thăm dò quy luật của bản thân tư duy. Họ chỉ có duy nhất một phương pháp tư duy là độc đoán trực giác và trực giác độc đoán. Tư duy độc đoán trực giác ấy ngoài việc sản sinh những ý kiến đủ mọi màu sắc ra thì chẳng thể có được sự suy lý khuếch trương, kéo dài, càng không thể có sự kiến cấu sáng tạo trừu tượng. Cho nên những tư liệu do các văn nhân TQ viết, ngoài việc có ý nghĩa chất đống to bằng hạt cát ra thì căn bản không thể có giá trị lý luận kiến cấu hữu cơ. Điều đó làm cho văn nhân chúng ta bao đời qua chưa bao giờ hiểu được lý luận là gì. Về cơ bản, văn nhân TQ là một lũ người lùn văn hóa chẳng biết lý luận là cái gì, chỉ biết phát biểu ý kiến (ý khí chi kiến) mà thôi. Dựa vào những người ấy thì mãi mãi chẳng có thể xây đắp nên tòa lâu đài khoa học cận-hiện đại. Cho dù trên mặt sáng lập kỹ thuật và nghệ thuật thì phần lớn cũng chỉ có thể là những thứ bình thường, nông cạn, vô vị, thậm chí thấp hèn. Chính vì thế mà đã hình thành một lịch sử hầu như vô “học” hơn hai nghìn năm qua của TQ, qua đó tạo ra sự ngu dốt trên thực chất của văn nhân TQ rồi mở rộng ra thành sự ngu dốt của người TQ (nhất là trong 200 năm gần đây).
Trong tất cả các nguyên nhân làm cho người TQ thời cận đại bị đày đọa, nguyên nhân căn bản nhất là sự ngu dốt của họ — tình trạng này dần dần tích tụ mà thành trong lịch sử dài lâu. Do logic mà lạc hậu, nghèo khó. Do logic mà bị kẻ khác bắt nạt, bị đánh, bị kỳ thị. Chỉ có từ đó nhận thức được sự ngu dốt của mình và thoát ra khỏi sự ngu dốt ấy thì người TQ mới có thể thay đổi tất cả trong thế kỷ và thời đại mới.
Trên đây đã phân tích nguyên nhân tình trạng người TQ vô “học” , quy lại chủ yếu là hai điểm sau:
1- Trong lịch sử lâu dài, những người TQ biết chữ thì không làm công việc sản xuất; ngược lại, những người làm sản xuất thì không biết chữ — điều này đã tạo nên sự hoàn toàn tách rời giữa tư duy với thực tiễn. Nói gọn lại, tức sự hoàn toàn tách rời giữa “bộ não” và “cánh tay” của người TQ.
2- Trong lịch sử dài hơn 2000 năm, sự hoàn toàn tách rời giữa “bộ não” và “cánh tay”, giữa “học” và “thuật” của người TQ — sự tách rời song trùng này làm nên nguyên nhân lịch sử giải thích vì sao người chúng ta ngu dốt như thế. Vấn đề này phải được phân tích tiếp. Vì sao người TQ lại có căn nguyên lịch sử như thế? Đây chính là vấn đề cần được giải đáp trong phần sau.
Nguyễn Hải Hoành dịch. Bản gốc tiếng Trung: 中国人为什么这么愚蠢?- 黎 鸣
FacebookTwitterLinkedInEmailShare
Có Thể Bạn Quan Tâm:
Author The ObserverPosted on28/08/2016CategoriesBình luận, Trung QuốcTagsLi Ming, Nguyễn Hải Hoành
Post navigation
PREVIOUSPrevious post:Thương điếm các nước Phương Tây ở Đại Việt TK 17
NEXTNext post:28/08/1941: Nhật yêu cầu họp thượng đỉnh với Mỹ
Search for:SEARCH
BÀI MỚI
BÀI ĐƯỢC ĐỌC NHIỀU
CHỦ ĐỀ MỚI
TÌM BÀI THEO CHỦ ĐỀ
Tìm bài theo chủ đề Select Category Ấn phẩm (35) Tiếng Anh (23) Tiếng Việt (12) Biên dịch (271) Bình luận (2,221) Các vấn đề chung (1,051) Các vấn đề toàn cầu (91) Chính sách công (38) Chính trị học đại cương (86) Kinh điển (16) Lịch sử (601) Lý thuyết QHQT (62) Nhập môn QHQT (26) Phân tích CSĐN (62) Phương pháp NCKH (10) Thuật ngữ QHQT (115) Tôn giáo (71) Từ ngữ thú vị (1) Văn minh nhân loại (57) Xã hội (16) Chính trị – An ninh (1,379) An ninh CA-TBD (344) An ninh quốc tế (350) Chính trị quốc tế (470) Địa chính trị (69) Quân sự – Chiến lược (252) Tranh chấp Biển Đông (206) Điểm sách (46) Hỏi-Đáp (323) Kinh tế – Luật pháp (617) Kinh tế chính trị quốc tế (346) Kinh tế quốc tế (231) Lịch sử kinh tế (98) Luật pháp quốc tế (65) Nghiên cứu (2) Nhân vật (214) Quốc gia – Khu vực (2,139) Ấn Độ (1) ASEAN (143) Châu Á (3) Châu Mỹ (32) Hoa Kỳ (588) Nga – Châu Âu (366) Nhật Bản (130) Tây Á – Châu Phi (137) Trung Quốc (786) Việt Nam (438) Sự kiện (1,509) Thế giới hôm nay (75) Thông báo (16) Tin tham khảo (65) Tư liệu (184) Video (11) Xã luận (11)
LINKS HỮU ÍCH
Các bài viết trên trang thể hiện quan điểm riêng của tác giả, không phải quan điểm của Dự án Nghiên cứu Quốc tế.
© Bản quyền các bài viết và bài dịch thuộc về các tác giả, dịch giả và Dự án Nghiên cứu Quốc tế. Mọi bài đăng lại, trích dẫn phải ghi rõ nguồn và dẫn link tới bài gốc trên Nghiencuuquocte.org
Mọi góp ý, liên hệ xin gửi về:
Lê Hồng Hiệp,
nghiencuuquocte@gmail.com
Customized by BoldThemesNghiên cứu quốc tế Proudly powered by WordPress
Thú vị
*******
David Hutt: 'Việt Nam sẽ mất đảng CS nhanh hơn nếu liên kết với Trung Quốc'
Tina Hà GiangBBC News Tiếng Việt
Bản quyền hình ảnhGETTY IMAGES/ILLUSTRATION BY BBC
Image captionTheo nhà báo David Hutt căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc khiến Việt Nam ở thế tiến thoái lưỡng nan
Trước tình trạng cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc đang leo thang, Hà Nội ngày càng khó giữ được sự cân bằng trong liên hệ ngoại giao với hai cường quốc đối thủ, tác giả David Hutt bình luận.
David Hutt, nhà báo làm việc tại Á châu, chuyên viết trong mục 'Đông Nam Á' của The Diplomat, đưa ra nhận định này trong bài ''Cạnh tranh giữa Mỹ và TQ khiến Việt Nam khó xoay sở''.
Trả lời phỏng vấn của BBC News Tiếng Việt hôm 10/12, David Hutt giải thích rằng Hà Nội thật ra không có lựa chọn nào hơn là giải pháp ngoại giao - có vẻ không hữu hiệu, trước một Trung Quốc ngày càng trở nên táo bạo và không có lý do gì phải nhượng bộ.
Tình trạng được David Hutt gọi là tiến thoái lưỡng nan này xảy ra là vì, theo ông, bận tâm lớn nhất của Hà Nội là không muốn mất chế độ cộng sản, vì thế mọi quyết định liên quan đến chính sách ngoại giao đều bị nỗi ám ảnh sợ mất đảng chi phối.
Thế nhưng ông cũng cho rằng Việt Nam cũng không muốn mất nước (khẳng định chủ quyền trên vùng Biển Đông), vì nếu để mất nước thì ''tính chính danh của nhà nước Việt Nam sẽ bị đe dọa.''
Carl Thayer: 'Tam giác ngoại giao VN, TQ và Mỹ sẽ còn căng'
VN 'quá rụt rè trước TQ' trong vấn đề Biển Đông
Điều gì đang 'đẩy' VN ra xa Trung Quốc và tới gần Mỹ hơn?
Giữa thế tiến thoái lưỡng nan này, David Hutt kết luận rằng Hà Nội sẽ mất đảng nhanh hơn nếu liên kết với Trung Quốc.
David Hutt: Vấn đề của Hà Nội là, khi Trung Quốc trở nên táo bạo hơn, Hà Nội mất đi nhiều lựa chọn. Hiện tại, những gì Việt Nam có chỉ là ngoại giao. Hà Nội cố gắng đàm phán trực tiếp với Bắc Kinh, điều này đôi khi có kết quả, nhưng biện pháp ngoại giao đòi hỏi Bắc Kinh phải tử tế.
Trung Quốc giờ đã xây các đảo nhân tạo ở Biển Đông, nên các tàu của họ không cần phải quay trở lại đất liền để lấy thêm nguyên liệu, vì vậy họ có thể quấy rối tàu biển Việt Nam thường xuyên hơn và lâu hơn.
Ngoài ra, nếu Bắc Kinh thuyết phục được ASEAN ký kết bộ Quy tắc Ứng xử trên Biển Đông với các điều khoản Bắc Kinh muốn, thì chẳng lâu sau đó Hà Nội có thể sẽ buộc phải ngừng khoan dầu với các đối tác nước ngoài - hiện đang là các công ty Mỹ và Nga, cũng như tham gia hợp tác quân sự với Mỹ. Vì vậy, Hà Nội sớm có thể mất đi phòng thủ chính của mình.
Hà Nội còn có những lựa chọn nào khác? Việt Nam không thể đụng độ quân sự vì quân đội của họ yếu hơn hẳn so với Trung Quốc, và tại thời điểm này, nếu có chiến tranh, Hà Nội không tin là Mỹ sẽ đến hỗ trợ. Điều tôi muốn nói là Hà Nội cần nghĩ ra những ý tưởng mới và không thể phụ thuộc vào mong muốn rằng tình huống nguyên trạng sẽ kéo dài.
Ví dụ, ông Trọng hoặc ông Phúc có thể đến Washington, nâng cao quan hệ đối tác của họ thành một đối tác chiến lược, và thậm chí đưa ra ý tưởng về một liên minh hiệp ước - để nếu có cuộc tấn công vào Việt Nam thì Hoa Kỳ sẽ phải đáp trả.
Điều này sẽ thay đổi chính sách đối ngoại được quyết định vào thập niên 1990 của Việt Nam. Mọi thứ bây giờ rất khác xưa và Hà Nội cần phải bắt đầu có những suy nghĩ vượt ra ngoài khuôn khổ nếu muốn làm chủ được tình hình. Thật thế, Hà Nội đang đối mặt với nguy cơ không chủ động thích ứng được với các sự kiện chung quanh.
Hà Nội đang ở thế tiến thoái lưỡng nan. Tuy nhiên, vấn đề là hình như họ không có vẻ như muốn ra khỏi vị trí đó, nơi họ ngày càng bị đẩy sâu vào hơn.
BBC:Bài viết của ông trích dẫn câu châm ngôn ''chơi với Mỹ mất chế độ, chơi với Trung Quốc mất nước''. Theo ông thì nếu bắt buộc phải chọn, Hà Nội sẵn lòng bỏ chủ nghĩa cộng sản hơn hay sẵn lòng bỏ lãnh thổ hơn?
David Hutt: Ồ, họ không muốn bỏ cái nào. Tôi đoán là Đảng Cộng sản có lẽ muốn tự cứu mình nhiều hơn. Nhưng bây giờ đảng và nước gắn liền với nhau. Tôi nghĩ rằng, ngoài tăng trưởng kinh tế, bảo vệ lãnh hải Việt Nam ở Biển Đông giờ đây là điều duy nhất mang lại đến cho đảng chút tính hợp pháp. Từ bỏ khẳng định chủ quyền ở Biển Đông là điều tôi cho là có thể khiến đảng Cộng sản Việt Nam bị sụp đổ.
BBC: Ông nhận định rằng nguy cơ dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản Việt Nam sẽ cao hơn nếu Hà Nội liên kết với TQ thay vì nghiêng hẳn về phía Mỹ. Xin giải thích tại sao.
David Hutt: Đúng! Việt Nam sẽ có thể mất đảng nhanh hơn nếu liên kết với Trung Quốc.
Trước hết, theo tôi, chủ nghĩa dân tộc chống Trung Quốc ở Việt Nam hiện nay mãnh liệt đến mức nó thực sự đe dọa Đảng Cộng sản. Nguyễn Tấn Dũng quản lý tinh thần bài Trung khá tốt khi ông còn là Thủ tướng, như trong các sự kiện năm 2012. Nhưng kể từ năm 2016, nhiều người dân Việt Nam bây giờ cho rằng thấy nhiều lãnh đạo của Đảng hiện nay, đặc biệt là những người như Nguyễn Phú Trọng, là tay sai của Bắc Kinh.
Hãy nhìn vào các cuộc biểu tình chống Luật Đặc khu năm ngoái hoặc các cuộc biểu tình chống Formosa năm 2016; đó là những sự kiện khiến công chúng Việt Nam thực sự tức giận và đang dẫn đến cuộc tranh luận gay gắt trong đảng. Nếu Đảng Cộng sản Việt Nam hoàn toàn liên kết với Bắc Kinh, trong trường hợp đó sẽ phải từ bỏ chủ quyền của mình ở Biển Đông, tôi nghiêm túc nghĩ rằng điều đó sẽ dẫn đến sự tức giận công khai đến mức Đảng Cộng sản bị đe dọa.
Bản quyền hình ảnhDAVID HUTT
Image captionDavid Hutt: Đảng CSVN sẽ sụp đổ nhanh hơn nếu Hà Nội liên kết với Trung Quốc
Thứ hai, chính phủ Hoa Kỳ không có mục đích thay đổi chế độ, tạo ''diễn biến hòa bình'' hay sự ''tự chuyển hóa'' ở Việt Nam. Họ muốn từ Hà Nội một chính phủ thân thiện, phản đối sự bành trướng của Trung Quốc, điều mà Đảng Cộng sản Việt Nam hiện đang làm. Các dân biểu Mỹ nói đúng, chính quyền Hoa Kỳ đã vuốt ve Việt Nam. Hãy nhìn cách họ nhân nhượng với Việt Nam, chẳng hạn như khi Obama rút lệnh cấm bán vũ khí mà không bắt Hà Nội phải có bất kỳ tiến bộ nhân quyền lớn nào.
So sánh điều này với cách Mỹ đối phó với Campuchia hoặc Thái Lan. Tập đoàn Podesta, với mối liên hệ chặt chẽ với Đảng Dân chủ và Trump, đã vận động chính phủ Việt Nam trong nhiều năm và giết chết các dự luật đòi hỏi VN phải có nhiều tiến bộ về nhân quyền của Hoa Kỳ. John Kerry cũng bị cáo buộc đã làm việc chăm chỉ trong vai trò Bộ trưởng Ngoại giao để ngăn chặn bất kỳ dự luật nào như vậy đi qua Quốc hội.
Nhưng nếu Việt Nam không còn tranh chấp chủ quyền với Bắc Kinh ở Biển Đông và không còn đưa ra một thái độ chống Trung Quốc trong ASEAN, thì Mỹ không có lý do gì để nâng niu Việt Nam. Nếu Hà Nội gắn kết chặt chẽ hơn với Bắc Kinh, thì Mỹ sẽ tìm cách thay đổi chế độ ở Hà Nội. Và nếu Hà Nội liên kết chặt chẽ hơn với Bắc Kinh, người dân Việt Nam sẽ phản đối với con số lớn chưa hề thấy trong nhiều thập niên. Theo tôi, Đảng Cộng sản có nhiều thứ để mất trong nước và quốc tế nếu nó nghiêng hẳn về với Bắc Kinh hơn với Washington.
BBC:Gỉa sử nhận định vừa rồi là đúng, ông có nghĩ rằng Hà Nội cũng nhận ra điều đó và vì thế không muốn hoàn toàn liên kết với Trung Quốc, hay là họ có những lý do khác để không muốn làm như vậy?
David Hutt: Tôi nghĩ rằng Đảng Cộng sản, trước hết, không thích thay đổi. Nó muốn mọi thứ, trong nước và quốc tế, được giữ nguyên trạng như hiện tại. Xét cho cùng, nền kinh tế Việt Nam đang phát triển, Việt Nam đang được quốc tế đánh giá cao hơn - ví dụ, có ghế trong Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc - và Đảng Cộng sản vẫn nắm quyền.
Vì vậy, với các nhà lãnh đạo đảng mọi thứ bây giờ khá tốt. Nhưng mọi thứ cũng đang thay đổi và tôi không nghĩ rằng Đảng Cộng sản, về bản chất, giỏi thích nghi với thay đổi. Về mặt tư tưởng, họ muốn gần gũi với Bắc Kinh, với tư cách là anh em xã hội chủ nghĩa, và chắc chắn họ nghi ngờ ý đồ của Hoa Kỳ - mặc dù, như tôi đã nói trước đây, nỗi sợ về sự tiến hóa hòa bình của Hà Nội thực sự không phù hợp với thực tế.
Tôi không thấy có các phe thân Mỹ hoặc thân Trung Quốc trong đảng - Tôi nghĩ rằng nhận định này từ đâu đó là điều đã bị cường điệu hóa. Nhưng hiện Hà Nội đang đứng trước một tình huống rất khó khăn phải giải quyết.
Nếu không làm gì và hy vọng rằng mọi việc sẽ còn ở nguyên trạng, Hà Nội có nguy cơ không thể chủ động thích ứng được với các sự kiện. Nhưng nếu liên kết chặt chẽ hơn với Mỹ, Việt Nam có nguy cơ chiến tranh với Trung Quốc và các vấn đề kinh tế. Mặt khác, nếu nó liên kết chặt chẽ hơn với Trung Quốc, họ sẽ mất quyền khẳng định chủ quyền ở Biển Đông và có nguy cơ khiến Washington ngày càng tức giận và có biện pháp trừng phạt.
Vì vậy, như tôi đã viết trong bài, Hà Nội phải chọn một con đường ít xấu nhất, và đó là một quyết định thực sự khó khăn. Tôi chỉ muốn nói đây là một quyết định mà Hà Nội sẽ phải đưa ra vào một lúc nào đó.
BBC: Điều gì cần xảy ra để giúp Hà Nội thoát khỏi tình huống khó xoay sở này? Và nếu được hỏi, ông khuyên chính phủ Việt Nam nên làm gì?
David Hutt: Tự hào về điều mình là người ủng hộ phong trào dân chủ hóa Việt Nam, và những người dũng cảm đấu tranh cho quyền tự trị của chính họ - như Phạm Chí Dũng vừa bị bắt tháng trước - tôi sẽ khuyên Đảng Cộng sản cải cách hệ thống chính trị, cho các đảng độc lập được phép hoạt động và cho người dân Việt Nam có được bầu cử dân chủ thực sự. Tôi nói điều này với tất cả sự chân thành và cẩn trọng.
Vấn đề đối với Hà Nội ngay bây giờ là chính sách đối ngoại chỉ đứng hàng thứ yếu so với sự tồn tại của Đảng Cộng sản. Đảng Cộng sản nghĩ về vị trí của chính mình trước, rồi mới nghĩ đến chính sách đối ngoại.
Vì vậy, nếu Việt Nam bắt đầu dân chủ hóa, thì chính sách đối ngoại sẽ trở nên đơn giản hơn: Hà Nội sẽ không phải lo lắng về việc Mỹ muốn đổi chế độ; sẽ không phải lo lắng về việc xúc phạm người anh em xã hội chủ nghĩa ở Bắc Kinh; và sẽ không còn phải lo lắng là những người bất đồng chính kiến muốn nổi loạn và lật đổ toàn bộ hệ thống nhà nước.
Tâm trạng luôn lo lắng về sự sống còn của đảng CSVN là nguyên nhân tạo ra tình cảnh tiến thoái lưỡng nan này. Lịch sử dạy chúng ta rằng chính sách đối ngoại của các chế độ và nhà nước độc tài hiếm khi tốt về lâu dài, bởi vì họ luôn thận trọng quá mức về những gì xảy ra trong nước.
Trong một nền dân chủ, nếu một chính sách đối ngoại thất bại, thì sau cuộc bầu cử, chính phủ mới bước vào sẽ tìm cách giải quyết tình hình - và nhà nước vẫn tương đối ổn định. Chỉ cần nhìn vào các sự kiện ở Mỹ sau khi Mỹ bị thua trận trong cuộc chiến Việt Nam, đã không có bất kỳ vấn đề chính trị hay cuộc cách mạng lớn nào. Nhưng ở một quốc gia độc tài như Việt Nam, một chính sách đối ngoại thất bại có thể sẽ gây ra một cuộc cách mạng có nguy cơ tàn phá hủy toàn bộ nhà nước. Nguy cơ này khiến chính phủ thận trọng hơn, bảo thủ hơn và luôn tự phải lo lắng về sự sống còn hơn.
Bản quyền hình ảnhHOANG DINH NAM
Image captionHướng đi của Đoàn Thanh niên Việt Nam - hình minh họa
Copyright © 2019 BBC. BBC không chịu trách nhiệm về nội dung trên các trang bên ngoài.
Reuters bị chính nhà cung cấp thông tin cho thị trường Trung Quốc kiểm duyệt
Trọng Nghĩa
Đăng ngày 13-12-2019
Sửa đổi ngày 13-12-2019 13:19
Dưới sức ép của chính quyền Bắc Kinh, nhà cung cấp thông tin và dịch vụ phân tích dữ liệu tài chính Refinitiv, thuộc sở hữu của một tập đoàn đa quốc gia Mỹ Blackstone, đã cho chặn hơn 200 bản tin của hãng tin Anh Reuters, đặc biệt về Hồng Kông, không cho khách hàng của họ tại Trung Quốc tiếp cận với các thông tin này.
Ngoài hãng Reuters, 97 nguồn cung cấp thông tin khác sử dụng dịch vụ của Refinitiv cũng bị tập đoàn này kiểm duyệt trước, không đến được Trung Quốc.
Trong một phóng sự điều tra công bố ngày 12/12/2019, Reuters đã cho biết chi tiết về các vụ kiểm duyệt, khởi sự từ tháng 8/2019, với hơn 200 bản tin về Hồng Kông hay Trung Quốc không có lợi cho Bắc Kinh bị tập đoàn Refinitiv xóa ngay từ đầu, không cho đưa lên mạng Eikon chuyên về giao dịch và phân tích tài chính truy cập được từ Trung Quốc.
Đối với Reuters, nếu các bản tin trên bị chính quyền Bắc Kinh kiểm duyệt thì không có gì đáng nói, nhưng vấn đề ở đây là chính tập đoàn Refinitiv đã thực hiện điều này, trong lúc công việc của tập đoàn này chỉ là phân phối ra toàn thế giới các thông tin của Reuters và các thực thể khác có hợp đồng với Refinitiv thông qua mạng Eikon của tập đoàn này.
Điều đáng ngại, theo Reuters, là các tài liệu nội bộ của Refinitiv cho thấy là từ mùa hè vừa qua, tập đoàn Mỹ này đã cài đặt một hệ thống lọc tự động để cho việc kiểm duyệt dễ dàng hơn. Hệ thống này bao gồm việc tạo ra một mã mới để đính kèm vào một số bản tin có liên quan đến Trung Quốc, được gọi là mã “Restricted News”, tức là “tin tức bị hạn chế”.
Hậu quả của việc kiểm duyệt tận gốc này là các khách hàng tại Trung Quốc dùng dịch vụ của nhà cung cấp dữ liệu tài chính hàng đầu thế giới này, đã không theo dõi được thông tin về Hồng Kông, trong đó có hai bản tin của Reuters về việc Hồng Kông bị các cơ quan thẩm định tài chính quốc tế đánh sụt hạng. Bộ lọc kiểm duyệt này cũng được áp dụng cho gần 100 nhà cung cấp tin tức khác sử dụng mạng Eikon ở Trung Quốc.
Theo ghi nhận của Reuters, chế độ kiểm duyệt ở Trung Quốc ngày càng gắt gao thêm từ khi chủ tịch Tập Cận Bình lên nắm quyền tại Bắc Kinh. Các doanh nghiệp phương Tây làm ăn với Trung Quốc đã càng lúc càng bị Bắc Kinh gây sức ép là phải ngăn chặn thông tin, bài phát biểu và sản phẩm bị Trung Quốc coi là nguy hiểm về mặt chính trị. Tập đoàn Refinitiv có hàng chục triệu đô la doanh thu mỗi năm ở Trung Quốc, và đã bắt đầu nỗ lực kiểm duyệt kể từ đầu năm sau khi bị một cơ quan quản lý Trung Quốc đe dọa đình chỉ hoạt động.
Bị Reuters chất vấn, Refinitiv đã trả lời rằng họ “phải tuân thủ luật lệ của quốc gia nơi họ hoạt động”.
Một điều đáng lo ngại khác được Reuters nêu lên nếu hiện nay, Refinitiv chỉ chặn thông tin trên thị trường Trung Quốc, nhưng tập đoàn này hoàn toàn có thể bị Bắc Kinh gây sức ép để chặn thông tin bất lợi cho Trung Quốc trên các thị trường ngoài Trung Quốc.
Nguồn: http://vi.rfi.fr/châu-á/20191213-reuters-nhà-cung-cấp-thị-trường-trung-quốc-kiểm-duyệt
Chú thích hình: Logo Refinitiv trên một màn hình tại Canary Wharf ở Luân Đôn. Ảnh chụp ngày 01/08/2019 (REUTERS/Toby Melville/File Photo)