Lần đầu đến Sài Gòn
(Hôm nay, 24-5-2016, Tổng thống Mĩ (United States of America), Barack Obama, đến Sài Gòn lần đầu tiên. 43 năm trước, hè năm 1973, tôi cũng đã lần đầu tiên đến Sài Gòn . Tôi xin phép kể lại vắn tắt như dưới đây):
Hè 1973, sau khi kết thúc năm học thứ 3 ở ĐHSP Huế, tôi về Hòa Khánh (cách Đà Nẵng non 10 KM) để nghỉ hè. Gia đình tôi tản cư đến ở đấy. Nhưng chưa nghỉ được ngày nào thì có người rủ đi làm thợ nề trên đèo Hải Vân. Tôi đi làm ngay vì muốn có ít tiền để vào Sài Gòn cho biết “Hòn Ngọc Viễn Đông” nó như thế nào!
“Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát,
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông”
(“Áo lụa Hà Đông” - Nguyên Sa – Trần Bích Lan)
“Con đường Duy Tân cây dài bóng mát
Buổi chiều khuôn viên mây trời xanh ngát”...See moreLần đầu đến Sài Gòn
(Hôm nay, 24-5-2016, Tổng thống Mĩ (United States of America), Barack Obama, đến Sài Gòn lần đầu tiên. 43 năm trước, hè năm 1973, tôi cũng đã lần đầu tiên đến Sài Gòn . Tôi xin phép kể lại vắn tắt như dưới đây):
Hè 1973, sau khi kết thúc năm học thứ 3 ở ĐHSP Huế, tôi về Hòa Khánh (cách Đà Nẵng non 10 KM) để nghỉ hè. Gia đình tôi tản cư đến ở đấy. Nhưng chưa nghỉ được ngày nào thì có người rủ đi làm thợ nề trên đèo Hải Vân. Tôi đi làm ngay vì muốn có ít tiền để vào Sài Gòn cho biết “Hòn Ngọc Viễn Đông” nó như thế nào!
“Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát,
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông”
(“Áo lụa Hà Đông” - Nguyên Sa – Trần Bích Lan)
“Con đường Duy Tân cây dài bóng mát
Buổi chiều khuôn viên mây trời xanh ngát”
(“Trả lại em yêu” – Phạm Duy)
Và ca khúc “Ghé bến Sài Gòn” của Nhạc sĩ Văn Phụng cứ thôi thúc tôi!
Công việc thợ nề của tôi là xây các vách ở hai đầu các cống thoát nước. Vách có hình thang vuông: đáy 2 mét, đỉnh 0,2 mét. Cống có đường kính 2 mét, bằng thép. Và xây các đường dẫn nước phía vách núi để khi mưa lớn, nước chảy mạnh, không bị xói lở. Mỗi ngày được trả 250 đồng.
Tôi dự định sẽ bắt xe Phi Long hay Tiến Lực để đi Sài Gòn. Nhưng, làm được hơn một tháng, đã có hơn 10.000 đồng (1 xe máy Honda 50 cc nguyên thùng chỉ 29.000 đồng) thì ông anh họ nói sẽ gửi đi máy bay. Thích quá!
Đúng ngày giờ hẹn, tôi đến chỗ làm của ông anh họ (gần Bảo tàng điêu khắc Chăm Đà Nẵng). Chờ một lát thì có người đọc danh sách những người được bay chuyến sáng hôm ấy. Nghe tên mình, tôi lên xe.
Chiếc GMC chở gần 30 người, chạy ra phi trường Đà Nẵng. Xe đến gần một chiếc máy bay khổng lồ. Đó là chiếc máy bay Lockheed C-130 Hercules. Chúng tôi được hướng dẫn lên máy bay từ phía đuôi máy bay và được chia đều ngồi dọc hai bên. Mỗi ghế một người và phải buộc dây ngang bụng.
Tấm bục lớn ở đuôi máy bay được nâng lên, khép kín phía đuôi máy bay và chiếc Lockheed C-130 Hercules lăn bánh, cất cánh. Qua ô cửa nhỏ, tôi thấy bên dưới toàn là núi rừng trùng điệp. Có lẽ “nó” đang bay trên Tây Nguyên.
Tôi đã bay trên một số loại máy bay trực thăng, C123, … nhưng phải công nhận anh C130 này rất êm, rất thoải mái.
Có người bảo: “Đến rồi! Sông Đồng Nai kia rồi!” Và máy bay hạ dần độ cao rồi đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhứt.
Tôi lên một chiếc Lambro 550 để ra cổng phi trường rồi đi xích lô về nhà bạn, người bạn cùng lớp thời trung học, đã vào Sài Gòn để học Đại học.
Ngày thứ nhất, bạn giao cho tôi một chiếc xe máy Suzuki. Tôi đi đổ xăng và mua một cái bản đồ Thủ đô Sài Gòn và bắt đầu khám phá “Hòn Ngọc Viễn Đông”.
Tôi đến đường Trương Minh Giảng, ngắm Đại học Vạn Hạnh. Đi hết đường Trương Minh Giảng, rẽ trái, đến Ngã tư Bảy Hiền, ngắm Bệnh viện Vì Dân đồ sộ, vào Hương lộ 14 để thăm ông anh cô cậu. Khu Bảy Hiền có rất đông người Quảng Nam vào làm ăn sinh sống.
Ở chơi nhà ông anh cô cậu đến 14 giờ, tôi đến đường Trần Quốc Toản để thăm bà chị kết nghĩa.
Năm 1964, Quảng Nam bị lụt lớn, thiệt hại khủng khiếp về người và tài sản. Trường Trung học Trưng Vương (Sài Gòn) của chị N. quyên tiền giúp học sinh miền Trung. Lớp 11A2 của chị N. đã gửi tiền giúp lớp tôi. Tôi và bạn tôi, mỗi người nhận được 200 đồng. Tôi viết thư cảm ơn lớp 11A2 của chị N. Từ đó, chị N. và tôi thường viết thư cho nhau. Chị N. học trên tôi hai lớp. Tôi cũng nhận được nhiều thư của các chị cùng lớp với chị N. nữa.
Ba chị N. là một Bác sĩ và sau này chị N. cũng trở thành một Bác sĩ. 21 năm sau (1973-1994), trong dịp đi tăng cường cho Bệnh viện đa khoa tỉnh Ninh Thuận, chị N. có đến Khu tập thể trường THPT. DTNT. Ninh Thuận để thăm gia đình tôi.
Từ giã chị N. và gia đình, tôi đến chợ Bến Thành, đi qua nhà sách Khai Trí, vòng ra đường Bạch Đằng chiêm ngưỡng tượng đài Đại Vương Hưng Đạo – Trần Quốc Tuấn.
Sau đó, tôi đến dinh Độc Lập, ngắm công trình của Kiến trúc sư lừng danh Ngô Viết Thụ, đến chiêm ngưỡng Nhà thờ Đức Bà rồi đến Bảo tàng Lịch sử.
Tại Bảo tàng Lịch sử, nhìn những cây cọc Bạch Đằng, hình ảnh Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Lí Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Quang Trung, … lòng tôi dào dạt cảm xúc tự hào, cảm phục cha ông mưu trí, anh hùng, kiên cường, bất khuất!
Ngắm những phiên bản trống đồng Đông Sơn, thạp đồng Đào Thịnh, những mũi tên đồng, … tôi như thấy lại cả một quá khứ gian khổ, hào hùng và tài hoa của dân tộc!
Rời Bảo tàng Lịch sử, tôi vào Thảo Cầm Viên để xem voi, gấu, sư tử, … Con hổ trong Thảo Cầm Viên, lúc này, trông rất giống con hổ của Thế Lữ trong bài thơ nức tiếng “Nhớ rừng”. Nó khinh khỉnh, nghênh ngang, dữ dằn, hung tợn lắm! Chắc là được ăn uống đầy đủ nên rất sung sức, mạnh mẽ.
Gần 17 giờ, khát nước và mệt, tôi quay về nhà bạn. Gặp một chị bán trái cây, đang đẩy xe đi bên đường, tôi dừng lại, hỏi: “Bao nhiêu một chục cam vậy chị?”. Chị trả lời ngay: “Bốn đồng chú à!”. Tôi nói: “Chị bán cho em một chục!”. Chị nhặt cam, bỏ vào một bao giấy đã được dán sẵn. Tôi trả tiền cho chị.
Cầm bị cam, nghe nằng nặng, tôi mở xem. Thấy 13 trái cam, tôi nói với chị: “Dư 3 trái chị ơi!”. Chị bảo: “Không dư đâu! Một chục là 12 trái, tôi biếu chú 1 trái nữa là 13. Nghe tiếng chú, tôi biết chú ở ngoài Trung mới vào. Quảng Nam phải không? Ở đây, tôi tính chục 12, chứ chú xuống miền Tây, người ta tính cho chú chục 14, chục 16 nữa kìa.”.
Tôi vô cùng ngạc nhiên: chục 12, chục 14, chục 16 và còn biếu 1 trái vì “tôi biết chú ở ngoài Trung mới vào”! Người Sài Gòn sống nghĩa tình quá! Tôi vô cùng cảm động trước tình cảm của chị bán trái cây, tôi nói: “Vậy, em cảm ơn chị! Chào chị nhé!”.
Ngày thứ hai, tôi đi lung tung: đến cầu Chữ Y, qua Khánh Hội, đến Đa Kao, Chợ Lớn, … Đi trên các con đường Tú Xương, Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh Quan, … rợp bóng me, hoa và lá me rắc vàng trên đường. Đúng là những con đường dành cho các nhà thơ!
Đến chiều, tôi đến nhà sách Khai Trí, mua gần 20 quyển sách các loại: từ điển, thơ, tiểu thuyết, sách dịch, sau khi tính toán số tiền cần để ăn uống và đi xe.
Sáng hôm sau, tôi chia tay bạn và lên xe Phi Long để về lại Đà Nẵng.
Xe chạy tới Sa Huỳnh thì trời tối, những người anh em con Lạc cháu Hồng đang bắn giết nhau, xe không thể đi tiếp. Xe phải đưa hành khách xuống bờ biển để lên 2 chiếc thuyền. Thuyền chạy cách bờ vài cây số. Nhìn vào trong đất liền, thấy đạn bay đỏ trời, hỏa châu chiếu sáng, tiếng súng lớn nhỏ, lúc nhặt lúc thưa. Tôi không hiểu sao người Việt Nam mình lại thích bắn giết nhau dữ vậy!
Ra tới quãng thị xã Quảng Ngãi, thuyền mới cập bến, chúng tôi lên bờ và lên xe – một xe Phi Long khác – để đi tiếp ra Đà Nẵng.
Đấy, lần đầu đến Sài Gòn của tôi là như thế. Còn rất nhiều tình tiết nhưng tôi xin thuật vắn tắt như thế vì sợ làm mất thì giờ của người đọc!
Sài Gòn thật tuyệt vời! Đúng là một Hòn Ngọc! Hòn Ngọc không chỉ là nhà cửa, lâu đài, cao ốc, đường sá, … mà quan trọng hơn (tôi nhấn mạnh), đó là Hòn Ngọc của Tình Người, của Nhân Cách, của Tâm Hồn người Sài Gòn!
Đọc “Nhớ rừng” của Thế Lữ (1907-1989)
“Nhớ rừng” của Thế Lữ là một bài thơ hay. Những ai có chí khí, có khát vọng thoát ra khỏi cuộc sống chật hẹp, tù túng, quẩn quanh, gò bó, tầm thường đều thấy phấn khích khi đọc hay khi nghe ngâm bài thơ “Nhớ rừng”.
Bài thơ được tác giả đề tặng nhà văn lớn Nhất Linh và có một chú thích rất rõ ràng, cụ thể: “Lời con hổ ở vườn Bách thú”. Đúng vậy. Bài thơ là “lời con hổ” nhưng lại mang tâm trạng của con người. Và, đó không chỉ là tâm trạng của một người, của riêng Thế Lữ mà còn là tâm trạng của cả một tầng lớp, một thế hệ. Đáng tiếc thay, đó lại là tâm trạng gần như bất lực và bế tắc!
“Nhớ rừng” mở đầu bằng một nỗi căm hờn, một niềm bi phẫn cao độ:
Gậm một khối căm...See moreĐọc “Nhớ rừng” của Thế Lữ (1907-1989)
“Nhớ rừng” của Thế Lữ là một bài thơ hay. Những ai có chí khí, có khát vọng thoát ra khỏi cuộc sống chật hẹp, tù túng, quẩn quanh, gò bó, tầm thường đều thấy phấn khích khi đọc hay khi nghe ngâm bài thơ “Nhớ rừng”.
Bài thơ được tác giả đề tặng nhà văn lớn Nhất Linh và có một chú thích rất rõ ràng, cụ thể: “Lời con hổ ở vườn Bách thú”. Đúng vậy. Bài thơ là “lời con hổ” nhưng lại mang tâm trạng của con người. Và, đó không chỉ là tâm trạng của một người, của riêng Thế Lữ mà còn là tâm trạng của cả một tầng lớp, một thế hệ. Đáng tiếc thay, đó lại là tâm trạng gần như bất lực và bế tắc!
“Nhớ rừng” mở đầu bằng một nỗi căm hờn, một niềm bi phẫn cao độ:
Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua,
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé diễu oai linh rừng thẳm
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm,
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi,
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.
Con hổ xót xa khi mình không còn là mình mà chỉ còn là “thứ đồ chơi” và phải “chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi, với cặp báo chuồng bên vô tư lự”.
Đúng. Chẳng có nỗi bất hạnh nào lớn hơn khi mình không còn là mình, khi ta không còn là ta, khi đã đánh mất bản ngã, đánh mất cái tôi độc đáo để chỉ còn là một “cái tôi” giả tạo, nhợt nhạt, khốn khổ.
Và, con hổ chỉ còn biết sống với quá khứ, sống với “thủa (thuở) tung hoành” ngày xưa. Cũng may cho con hổ là hắn còn có một quá khứ hào hùng để mà thương nhớ. Nhờ thế, con hổ may ra quên đi được, dù là trong chốc lát, cái hiện tại “nhục nhằn, tù hãm”:
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Thủa tung hoành hống hách những ngày xưa.
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội,
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Ta biết ta chúa tể cả muôn loài,
Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi.
Con hổ nhớ mãnh liệt nhất, nhớ quay quắt nhất, nhớ cụ thể nhất là “những đêm vàng bên bờ suối”, “những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn”, “những bình minh cây xanh nắng gội” và “những chiều lênh láng máu sau rừng”:
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
Nhưng, đấy cũng chỉ là quá khứ. Quá khứ dù hào hùng, tươi đẹp bao nhiêu cũng không thể thay thế cho hiện tại. Cũng như con người, con hổ vẫn phải sống với cái hiện tại của nó và con hổ đã không hề mơ hồ, không hề ảo tưởng khi cất lời than vãn:
Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?
Và, con hổ chỉ còn biết “ôm niềm uất hận ngàn thâu (thu)”, một niềm uất hận lớn, niềm uất hận vĩnh cửu và chỉ còn biết ghét, ghét cay ghét đắng, sự trì trệ, sự tầm thường, sự giả dối, sự học đòi, sự bắt chước, …:
Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Giải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém;
Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm,
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, thâm u.
Cuối cùng, con hổ chỉ còn biết sống trong mộng, một “giấc mộng ngàn to lớn”, để quên đi thực tại, để được tự do, dù chỉ là trong mộng :
Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hùm thiêng ta ngự trị,
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa,
Nơi ta không còn được thấy bao giờ!
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,
Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,
- Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!
Như đã nói ở trên, tuy là “lời của con hổ ở vườn Bách thú” nhưng rõ ràng bài thơ là tâm trạng của cả một tầng lớp, một thế hệ thanh niên Việt Nam cảm thấy bất lực và bế tắc.
Ta muốn thấy một con hổ biết phá cũi sổ lồng, một con hổ biết tung người lên, bay qua các hàng rào để tự giải phóng cho mình hay tiêu cực hơn, tự đập đầu vào tường, để tự sát, quyết không chịu sống cảnh “nhục nhằn tù hãm” nhưng con hổ của chúng ta, con hổ của Thế Lữ, không được như thế. Con hổ của chúng ta, con hổ của Thế Lữ, chỉ biết dừng lại ở chỗ : bất bình với hiện tại, xót xa với cái hôm nay, nhớ tiếc quá khứ, mơ mộng đến những ngày tháng đã qua!
Nhưng, dù sao đi nữa, dù bất lực và bế tắc thì sự bất lực và bế tắc của một con hổ vẫn kì vĩ hơn nhiều, hào hùng hơn nhiều so với sự bất lực và bế tắc của một con sâu hay sự bất lực và bế tắc của một con dòi. Bởi một lẽ đơn giản là con hổ được người ta tôn trọng: người ta gọi con hổ là ông Hổ, ông Hùm, ông Cọp, ông Ba mươi. Ở Phan Rang (Ninh Thuận) có Cầu ông Cọp, ở Hội An (Quảng Nam) có Miếu ông Cọp, v.v…
Có lẽ, chính vì thế, bài thơ “Nhớ rừng” đã, đang và sẽ còn làm phấn khích nhiều thế hệ người đọc.
Kỉ niệm 102 năm ngày sinh của Thế Lữ (1907-2009), chúng ta cảm ơn nhà thơ đã để lại cho đời một bài thơ độc đáo, bi tráng. Chúng ta tin rằng, nhà thơ của chúng ta, con hổ của Thế Lữ, đã về với khu rừng vĩnh cửu của mình, đã chẳng còn phải sống cảnh “nhục nhằn tù hãm” nữa, đã hoàn toàn tự do, tuyệt đối tự do.
Ninh Thuận, 12-2009
PHAN THÀNH KHƯƠNG
PHỤ LỤC:
Nhớ rừng
(Lời con hổ ở vườn Bách thú)
Tặng Nguyễn Tường Tam
Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua,
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé diễu oai linh rừng thẳm
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm,
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi,
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Thủa tung hoành hống hách những ngày xưa.
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội,
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Ta biết ta chúa tể cả muôn loài,
Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi.
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
- Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?
Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Giải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém;
Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm,
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, thâm u.
Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hùm thiêng ta ngự trị,
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa,
Nơi ta không còn được thấy bao giờ!
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,
Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,
- Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!
Ai về Ninh Thuận?
1. Ai về Ninh Thuận quê em,
Được ăn nho ngọt, được xem Tháp Chàm,
Được nghe tiếng trống gi-năng,
Tắm cùng Ninh Chử, ngắm trăng Đá Chồng.
2. Ai về Ninh Thuận biết không?
Đầm Vua muối trắng, nắng hồng Bình Sơn,
Gốm làng Bàu Trúc ngàn năm,
Gấm làng Mĩ Nghiệp hoa văn tỏ tường.
3. Ai về Ninh Thuận yêu thương,
Ka-tê lễ hội bốn phương sum vầy.
Người đông như lá trên cây,
Người vui như gió như mây giữa trời.
4. Ai về Ninh Thuận ai ơi,
Vĩnh Hi thác nước muôn đời trắng bay,
Mai vàng sắc thắm lòng say
Nở bên bờ suối những ngày xuân sang.
5. Ai về Ninh Thuận thích chăng?
Cơm gà tự chọn (*), bánh căn thơm lừng, ...
Ở đây nắng gió quá chừng!
Tình người chân thật vui mừng đón ai!
Ninh Thuận, 12-02-2012 ...See moreAi về Ninh Thuận?
1. Ai về Ninh Thuận quê em,
Được ăn nho ngọt, được xem Tháp Chàm,
Được nghe tiếng trống gi-năng,
Tắm cùng Ninh Chử, ngắm trăng Đá Chồng.
2. Ai về Ninh Thuận biết không?
Đầm Vua muối trắng, nắng hồng Bình Sơn,
Gốm làng Bàu Trúc ngàn năm,
Gấm làng Mĩ Nghiệp hoa văn tỏ tường.
3. Ai về Ninh Thuận yêu thương,
Ka-tê lễ hội bốn phương sum vầy.
Người đông như lá trên cây,
Người vui như gió như mây giữa trời.
4. Ai về Ninh Thuận ai ơi,
Vĩnh Hi thác nước muôn đời trắng bay,
Mai vàng sắc thắm lòng say
Nở bên bờ suối những ngày xuân sang.
5. Ai về Ninh Thuận thích chăng?
Cơm gà tự chọn (*), bánh căn thơm lừng, ...
Ở đây nắng gió quá chừng!
Tình người chân thật vui mừng đón ai!
Ninh Thuận, 12-02-2012
PHAN THÀNH KHƯƠNG
(*) Có cả chục miếng thịt gà trên đĩa để khách tự chọn, "ăn nhiêu trả nhiêu" (ăn bao nhiêu miếng trả bấy nhiêu tiền).
Ảnh: Tháp Pô Klong Garai (Ninh Thuận) về đêm.