"Trong ngày mới,
nắng say tình dâng, ngập lối
Nắng lên, qua hàng cây, gió mơn man đùa lả lơi đàn bướm
Bước chân vui hạnh phúc, nắm tay ta về vùng trời bình yên"
https://www.youtube.com/watch?v=oYYW3X-CKh0
" Cuối tuần mời ngắm tranh Camille Pissarro và đọc một bài thơ "
Ngồi bên phố cũ
Cánh cửa xầm đóng lại
Chìa khoá?
Quăng lên trời
Ta,
Bước chân phiêu dạt
Tay không,
Bày cuộc chơi...
Lưu Linh?
Ờ, Lưu Linh
Tản Đà?
Ta chấp hết
Cafe?
Dạ, Khổng Tử
Ngàn ly, chưa thấm tháp
Mắt sắc như kiếm dao
Chém chơi
vài Phạm Thái
Đàn đứt giây lỗi nhịp
Hết hơi đêm chưa tàn
Ta hát lời ly biệt
Tử Kỳ
Chết dưới trăng
Đứng giữa trăm nẻo đường
Không lui
Và chẳng tới
Ta như đêm
Mịt mù
Giữa trùng trùng duyên khởi...
Quanh một vòng trái đất
Thèm
Trở lại chốn xưa
Ngồi bên hè phố cũ
Tỉ tê khóc
Nhớ nhà.
( Lê Chiều Giang )
Xin được giới thiệu cùng các anh chị và các bạn bài viết của Lê Chiều Giang, nói về tình bạn của cô và nhà văn Nguyễn Thị Thuỵ Vũ. Môt trong những nhà văn nổi tiếng của văn học miền Nam Việt Nam trước 1975. Người đã từng đoat giải văn chương toàn quốc năm 1970.
Lạnh tanh với chính mình
Thư gửi Nguyễn Thị Thuỵ Vũ
Trong một lần giận chồng tê tái, tôi vùng chạy khỏi căn chung cư nhỏ, lẫm đẫm đi dọc theo hàng cây bọc dài quanh con sông trước nhà.
Cái dễ thương nhất của những cuộc " bỏ nhà ra đi ", là chúng ta luôn ngoái cổ tìm xem " đối thủ " có cuống quýt chạy theo, có hoảng hốt gọi mình trở lại hay không ?
Nghiêu Đề đã chẳng làm điều đó, tôi chợt hiểu ra và thấy mình sai sai trong những giận hờn vô lối sáng nay.
Sẵn chiếc ghe của Bà Mười đang chờ đón khách, tôi vùng vằng "sang sông ". Không hiểu có phải sự làm nư như muốn ăn vạ của tôi đã khiến chiếc thuyền chòng chành, chao đảo đến nỗi nó suýt nghiêng xuống nước ?
Cũng chẳng biết qua tới bờ bên kia rồi tôi sẽ đi đâu ? Nhảy xuống sông thì chắc không nỡ bởi tôi còn mê " sống " lắm...
Con đường cát trắng ngoằn ngoèo dài như vô tận, dẫn tôi qua nhà chị Thuỵ Vũ bên Làng Báo Chí. Chị Vũ và anh NĐToàn dùng chiếc ghe nhỏ của bà Mười như chiếc cầu nối để thường xuyên sang thăm chúng tôi ở Cư Xá Thanh Đa. Hôm nay, lần đầu tiên tôi vất vả tìm sang nhà chị, một mình.
Hồ Trường An hỏi thăm đủ điều khi tôi ngồi chờ chị thay áo, chải tóc. Dù bất ngờ có thêm tôi, chị Thuỵ Vũ cũng rủ để cùng đi gặp ai đó mà chị nói là sống ở... xa lắm.
Cái nơi "xa lắm" đó giờ nhớ lại tôi nghĩ chắc chỉ là Phú Lâm hay Chợ Lớn. Sau vài chuyến xe lam, chúng tôi đi bộ, lội tắt vô những ruộng những đồng xa khuất hẳn với đường phố ngoài kia.
Ngạt ngào trong gió, tôi ngửi ra mùi của trầm hương. Nhưng nơi chúng tôi dừng lại trông chẳng có vẻ gì là một ngôi Chùa. Rất đông người xàng qua lượn lại trong một cái sân nhỏ, tay mang những dĩa hoa quả, nhang đèn và tiền âm phủ. Anh Hồ Trường An giờ mới tiết lộ cho biết, chúng tôi đi coi ..." Hầu Đồng". Hết hồn vì sợ hãi đến nỗi tôi chỉ muốn tìm đường tẩu thoát, nhưng làm sao tôi dám rời khỏi nơi đây một mình ? Và thật lạ, chỉ với cái nắm tay của chị Thuy Vũ sau đó đã làm tôi yên tâm. Tôi ngồi khoanh tròn chân chờ đợi, cứ như một "dồng" rất lâu năm và chuyên nghiệp.
Bạn anh Hồ Trường An, Sìn, người mà tôi muốn chào bằng " chị" thì chị Vũ nhắc tôi gọi là "Anh". Lúng túng với nhiều nhân vật chẳng biết Ông hay Bà chung quanh tôi hôm đó, khiến tôi chỉ còn biết ngồi im với hương khói cay xè mắt như sắp khóc và chuông mõ rộn ràng.
1975, cái mốc của nhiều điều và nhiều thứ... Tôi chẳng muốn than đi thở lại làm gì cả hằng trăm chuyện, mà thiên hạ đã nói gần hết. Nhưng làm sao để tôi có thể quên hình ảnh rã rời của chi Thuỵ Vũ, những lần chị ghé chơi nhà sau một ngày đi làm mệt mỏi .
Một ngày mà 12 tiếng bán vé trên những chuyến xe buýt tràn ngập những người là người . Chị mong manh và nhỏ bé, chị kiệt quệ rão rệu trong inh ỏi, điên đầu của một Sài Gòn náo loạn những âm binh...
Nhờ sự tử tế của một cô bạn thân đang làm ở "Bộ Giao Thông", chị Vũ được đi bán vé xe buýt, và dù chỉ với đồng lương thời bao cấp ít ỏi như thế, chị phải vặt vẹo nuôi nấng Khôi Hạo, Bé Thuỵ và Tí Teo. Ông Sìn, người tôi gặp trong Chùa vài năm truóc đó, sau 75, đã về ở để giúp chị cơm nước, chăm sóc mấy nhỏ khi chị không có nhà.
Bé Khôi Thuỵ, một vết sẹo ngang xương của đời, một gắn bó kỳ lạ từ mối tình mà chị thường đắng cay, trì triết : " Khi lấy "Chả ", coi như là mình đã xí hết những trầm luân từ một tỷ những "Thằng Cha" có mặt trên cái thế giới này rồi ! "
Chị có sắc mặt lạnh tanh khi nói chuyện đời mình, nhìn chị mà tôi mơ hồ tưởng chị kể chuyện nhân gian, chuyện của ai khác. Phải chăng, với những khổ đau trùng trùng, có khi đã tạo ra lớp vỏ ngạo mạn lạnh lẽo, như một khí giới tự vệ hữu hiệu nhất của chị ?
Những tối chị ở lại nhà chúng tôi, phải là những rì rào to nhỏ, suốt đêm ...
Mối tình đầu tiên mà chị tưởng đã đặt hết yêu thương, là một "Anh Hùng Mã Thượng", mối tình lớn này đã khiến chị sau đó phải giam mình suốt chín tháng dài, trong căn nhà im ỉm của song thân, vì sợ những thị phi, tai tiếng... Hoá ra lại chỉ là người "chẳng ra làm sao, rất đặc biệt là đã không hiểu chút gì về Thượng với Mã ! " Bởi thế, Bé Hương chưa bao giờ được gặp cha mình, cho tới ngày Ông mất ở Sài-Gòn khoảng năm 1995.
Sáng thức dậy, khi Nghiêu Đề ngồi quấn thuốc rê, cái thuốc mà cả nước nghi là xắt ra từ những lá đu đủ, tôi rót trà nhâm nhi ngồi nhìn chị Vũ trang điểm. Có lẽ chút yêu đời duy nhất còn sót lại từ chị, là lúc ngồi vẽ đôi chân mày, mỏng dính và mờ nhạt. Đời có còn gì không để chúng ta phải tô thêm cho đậm đà ? có lần tôi đã tính hỏi chị như thế.
Chị tô son lên môi, xức chút má hồng và...ca vọng cổ !. Tôi hay cười cười với những phối hợp tréo ngoe, trật trìa chẳng đâu vào đâu của chị. Vậy mà cái chất giọng ngai ngái, khàn khàn khi chị ngân nga có lần đã làm tôi suýt khóc :
"Tưởng giếng sâu em nối sợi giây dài
Ai dè giếng cạn , em tiếc hoài sợi dây..."
Có lần chị rủ tôi tới ngôi chùa Già Lam ở Phú Nhuận, Sư trụ trì là người thân với chị và nghe nói ông thuyết pháp rất hay. Chị đến không phải vì gì khác, ngoài việc có hẹn xem bói bài cho rất nhiều bà đang ngồi chờ chị ở bên ngoài, dưới bóng mát của một cây cổ thụ phía sau sân chùa.
Trên những khuôn mặt lam lũ, đầy lo âu và tội nghiệp đó đã có thoáng chút vui mừng, khi thấy chị Vũ đến. Câu hỏi của tất cả quí bà chỉ là :" Tuần sau, tháng tới chồng tui vượt biên có ổn không ?", hoặc " Bao giờ thì có tin của con trai, người đã ra ghe từ tháng trước?" ...
Dưới cái nắng gay gắt của trưa hè, tôi ngồi bần thần, tò mò nghe chị Vũ bàn chuyện tương lai, quá khứ của thiên hạ qua một xấp lá bài xanh xanh đỏ đỏ. Trúng sai gì thì chắc chỉ có Trời và chị cùng với những "khách hàng" này mới biết, nhưng có một thời gian chị đã sống lất lây với cái " sự nghiệp " vui vui này. Chị đã bỏ đi được sự vất vả của bao tháng ngày bị rượt đuổi, bởi những chuyến xe buýt triền miên trong thành phố.
Tôi đã nhiều lần trở về quê cũ, líu lo với chị ở Lộc Ninh hay trên Sài Gòn, hoặc đi cùng chị tới nhà anh Văn Quang, người mà tôi nói đùa là chỉ có mình anh là trông gầy ốm hơn so với chị Thuỵ Vũ.
Mỗi lần muốn rủ tôi tới chung cư Nguyễn Thiện Thuật, chị giỡn: " Sáng nay tụi mình đi cafe với Ân Nhân ", tôi hiểu ngay là Văn Quang, người đã viết nhiều bài " tố cáo" về " Chả " dùm chị...
Đêm qua nhận email từ chị Thuỵ Vũ, một email dài hơn bình thường chợt làm tôi lo lắng. Chúng tôi email qua lại nhiều lần chị đã chẳng bao giờ nói tới anh Tô Thuỳ Yên. Duy nhất email này chị nhớ đến anh, dù chỉ thoang thoảng với một chút u hoài, nhắc tên một người " Chồng" đã ra đi từ vài năm truóc... Chị cũng nhắn tôi về chơi, trước khi... quá trễ.
Chúng tôi đã sống cùng nhau một thời dưới những oan khiên của quê nhà. Nơi mà đời sống có những khi lẳng lặng, trầm tĩnh, đôi lúc lại hốt hoảng, vội vàng, cứ như sắp không còn kịp để làm một điều gì... Cảm giác đó sau bao năm đã chìm lắng, đã biến mất kể từ ngày tôi từ biệt chị, ra đi.
Và với email chị gửi đêm nay, tôi ngồi viết suốt bốn tiếng, tưởng đã như là một hồi âm.
Viết, để gủi về một nơi chốn rất xa xăm, một nơi mà không biết sẽ còn có bao giờ tôi trở lại...
Lê Chiều Giang
( June 2020)
Nguyễn Đình Toàn,
những đêm nhớ lại
Tôi tắt máy sau khi đọc lại một bức thư dài gửi cho một người bạn phương xa. Thật không ngờ mình lại có thể ngồi gõ một khung thư lê thê, tỉ mỉ bao nhiêu chuyện cho một người đằng đẵng nhiều thập niên chưa một lần gặp lại. Tệ hơn nữa, cái trí nhớ đã âm u mù mịt như sương cũng chẳng gợi lại một hình ảnh nào trong tháng ngày xa xưa có tôi và bạn.
Một người bạn cũ nhưng lại đang rất mới.
Tháng ba, dường như mùa đông chỉ mới bắt đầu sau một tháng thời tiết ấm áp. Nấc đo màu đỏ của hàn thử biểu nằm trên dương độ và có khi vượt qua khỏi con số mười. Mọi người hân hoan cho rằng Paris năm nay không có mùa đông. Nhưng những cơn mưa ướt át, những luồng gió lạnh lẽo từ một cơn bão nào đó đã ào ạt thổi về trên phố từ mấy ngày nay.
Con đường trước nhà lúc nào cũng vắng hay tôi chỉ nhìn thấy nó mỗi khi không còn ai. Thói quen trước khi vào giường ngủ và thức dậy khi đêm chuẩn bị tạ từ. Đèn vàng và sương mù, những ngôi nhà, cây cành đổ bóng ngoài khung cửa là nơi của quá khứ tôi, nơi hồi tưởng, dù vui dù buồn.
« Nhớ lại trong đêm nay… cả trăm điều muốn khóc » (1) , một lời hát lấy từ một bài thơ của một nhà thơ quá cố mà tôi rất thích và tôi nghĩ đâu phải riêng tôi mới có cả trăm điều muốn khóc. Của chúng ta, bao người ly hương, làm gì lại chẳng có những đêm nhớ lại với trăm điều.
Tôi đang nhớ tới những người bạn cũ. Những người bạn cách tôi bao nhiêu biển rộng nên đêm của họ là ngày của tôi.
Thực ra chỉ cần nhấc điện thoại là nghe tiếng nói của nhau. Có thể bày tỏ một điều gì đó, chóng vánh. Nhưng chúng tôi chỉ trò chuyện bằng ngôn ngữ viết trên mặt phẳng. Thời đó, viber và whatsApp chưa được thịnh hành. Nếu có, chắc hẳn chúng tôi cũng phải dùng đến những chương trình nhanh gọn này thôi. Bởi đời sống với những giòng chảy văn minh, con người cũng bị cuốn trôi theo, khó mà dậm chân tại chỗ hay ngược giòng khi đã trót lao mình trong giòng cuồng lưu hối hả.
E.mail bây giờ hầu như chỉ dùng để gửi tài liệu, bài viết.
Nhắn tin, thăm hỏi, trò chuyện dăm ba câu với bạn tôi thường dùng viber. Người nhận chỉ cần nghe điện thoại rung lên một âm thanh rất nhẹ, mở màn hình ra là đọc tin nhắn ngay tức khắc. Bởi điện thoại di động bây giờ, hầu như gắn liền với con người như một phần thân thể. Đương nhiên chỉ là những câu ngắn ngủi, đôi khi là những emoji biểu lộ cảm xúc.
Và có phải ngần ấy văn minh trên mạng lưới viễn thông đã khiến chúng ta hay riêng tôi bỗng trở thành cạn lời, mà ngôn ngữ chính là phương tiện bày tỏ tình cảm ?
Những người bạn xưa kẻ còn, người mất. Thời gian đã bào mòn, đã đẩy chúng tôi vào những hao hụt, chán chường, gần như lãng quên nhau. Cuộc vui chơi nào lại chẳng đến hồi chấm dứt.
Cái thú của mỗi tối đi làm về hay mỗi sáng thức dậy, mở máy nhận những trang thư hiện trên màn ảnh máy điện toán tưởng không còn nữa. Thế mà như thuở mới biết dùng E.mail. Tôi đang lập lại những thói quen cũ của ngày xưa với một người mà ký ức không gợi lên một nét chấm phá nào để tôi mường tượng về bạn, ngoài cái hành lang trước cửa lớp. Sân trường với con đường xeo xéo bên hông, có khu chợ ồn ào tấp nập. Một nơi lý tưởng cho các nữ sinh thích lê la ăn quà vặt của ngôi trường đó.
Qua một tấm màn quá khứ của nhiều thập niên, bạn trở lại như một kẻ đang chơi trò cút bắt với tôi. Bạn đứng đâu đó tôi không thấy. Nhưng bạn đã vén cái bức màn sờn cũ ấy để tôi nhìn lại tôi xưa. Và thêm một tương quan giữa bạn với một người tôi cũng chưa hề gặp mặt, làm tôi nao lòng thao thiết nhớ về những ngày có thể nói với tôi là những ngày tươi đẹp nhất. Ngày biết mê đắm một tiếng nói, một câu văn.
Tiếng nói
Tôi đang nhớ lại những đêm Sài gòn.
Xóm đêm, các ngôi nhà đã then gài cửa đóng trong bóng tối im thinh, nhưng vẫn còn đâu đó những ngọn đèn toả sáng dưới những mái nhà ngủ muộn. Thỉnh thoảng có tiếng cười của ai đó đi về trong con ngõ.
Căn gác luôn được mở rộng bởi một cửa sổ có cánh là một khung kẻm sợi dầy, đan kết thành những mắt lưới tròn. Cửa được đóng mở bằng cách nâng lên hạ xuống cái khung lưới ấy. Từ khoảng trống đó có thể nhìn thấy cả một khoảng trời bao la phía ngoài. Lý tưởng cho những đêm trăng sáng hay những đêm mùa hè khi mà khí hậu tột cùng oi bức. Nửa đêm thức giấc hay trằn trọc, chẳng cần bật đèn đêm cũng có thể nhìn thấy mọi thứ đồ đạc trong phòng.
Nhưng những đêm thứ năm, cái khung lưới ấy luôn được xập xuống. Cả bức màn vải bên trong cũng được kéo kín để ngăn chắn luồng ánh sáng hắt vào từ phía ngoài. Như thể bóng tối cũng là một cánh cửa của mỗi người thao thức được khép kín riêng tư. Sự khép lại, đắm mình trong bóng tối của chủ nhân căn gác nhỏ này như chỉ để gìn giữ riêng cho mình một điều gì đó đắm đuối mê say, như nó chỉ là của riêng mình, phải nâng niu cất giấu.
Kỳ thực, điều ấy chỉ là một khoảng khắc thời gian. Mà thời gian nào có phải của riêng ai. Chỉ là một giọng nói, là những âm thanh được phát đi từ một làn sóng điện lan toả trong đêm, trên khắp mọi miền đất nước.
Những đêm thứ năm hò hẹn, những phút giây hò hẹn của những người yêu nhau. Của tình đầu, tình xa, tình nhớ. Những ai đã yêu, chưa yêu cũng cảm ra được một thứ tình yêu vào buổi ấy dù chỉ bằng những lời nói, câu ca.
Dù Sài Gòn chỉ có hai mùa mưa nắng, nhưng giọng nói dịu dàng ấm áp như chuyên chở thời tiết của bốn mùa. Mùa bàng bạc trong những bản tình ca. Tiếng xào xạc của những chiếc lá thu rụng đầy trên phố. Những sợi mưa rơi ẩm ướt những thềm nhà, long lanh trên cây lá. Sương mù, bóng tối và những con đường có ai đó, đang chia tay ai. Nghe qua một giọng nói mà tưởng như có thể ngửi thấy cả mùi hương hoa trên cây, mùi cỏ dại bên đường. Vị ấm nóng của ly cà phê hay hương thơm khói thuốc trong góc quán đêm về.
Tiếng nói không chỉ làm đêm thành phố êm đềm thơ mộng hơn. Những bài hát đã xoa dịu đêm quê hương đầy ánh hoả châu, ấm áp đêm tiền đồn heo hút.
Có bao nhiêu người đã thả hồn trong âm thanh ấy vào những đêm thứ năm như thế ? Những đêm khó quên.
Văn chương
Giờ ra chơi, hành lang trước lớp nhìn như là một trung tâm văn hoá.
Đông - Tây gặp gỡ với những cuộc họp mà hội viên tham dự đông lắm chỉ chừng năm sáu người. Các cô trường Tây hỏng tú tài Tây, đổi qua trường Việt học ban C, hòng lấy nhiều điểm về sinh ngữ để bù đắp lại các môn yếu kém thì chuyền tay nhau những tạp chí như Salut Les Copains, Elle...
Các anh, các chị lớn thì nào Bách Khoa, Khởi Hành, Thời Tập …
Đề tài hội họp là những cuốn phim vừa được trình chiếu ở trời Tây. Là những cuốn sách vừa được giải Nobel. Những cuốn sách mới phát hành, được dịch ra từ tác phẩm của những đại văn hào, triết gia nào đó, ở những nơi xa xăm ngàn dặm.
Những cô cậu học trò thanh xuân phơi phới, đang đặt những bước chân non nớt vào cõi chữ nghĩa Hàn Lâm này hầu như đã quên mất những bài văn chương chữ Nôm, quên mất Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Cao Bá Quát...., quên mất Phạm Quỳnh, Nhất Linh của Nam Phong Tạp Chí, Tự Lực Văn Đoàn trong những bài Cổ Kim, hay những bài nghị luận văn chương mà có thể họ đã chăm chú lắng nghe thầy giảng trước đó không lâu.
Nhưng ngoài những những âm thanh cuồng nộ (2), những xao xuyến của một thời để yêu và một thời đã chết (3) hay là cái giờ thứ hai mươi lăm (4) bi thảm một đời người, với ngàn cánh hạc (5), thì ở một góc khuất trong một lớp học có dăm ba mái tóc dài kề cận, chuyện trò. Các cô gái cũng đang trao gửi cho nhau từng câu văn của một cuốn sách. Họ bị cuốn hút, đắm mình vào không khí, thổ ngơi của truyện, vào thứ chữ nghĩa đầy thơ mộng, linh động. Họ tưởng như mình đang sống thở ở nơi chốn ấy, một Đà Lạt rất thật, rất gần. Ngay cả thấy mình trong tâm tư, tình cảm của nhân vật. Bởi nhân vật là tôi, là một cô gái.
Những thiếu nữ đang khám phá từng cái đẹp trong ngôn ngữ, tiếng nói của quê hương.
Faulkner, Erich Maria Remarque, Gheorghiu hay Kawabata và những chân trời xa lạ, đối với họ chẳng là gì hết.
« Khuya, tôi trở dậy xuống vườn sau nhà ngồi. Chiếc ghế gỗ ẩm sương và cây lựu trên đầu quệt những chiếc lá ướt vào mặt. Có lẽ mẹ tôi cũng không ngủ được, nên nghe tiếng chân tôi xuống vườn, một lát sau tôi thấy bà ra theo. Tôi hỏi, mẹ không ngủ à ? Bà ngồi xuống sát bên tôi bảo, mẹ nghe tiếng chân con ra đây. Trời lạnh làm tôi nhớ tới bà bạn trên Đà Lạt. Tôi kể chuyện bà bạn với mẹ tôi. Tôi nói và cầm lấy bàn tay bà. Bà quàng tay ôm lấy vai tôi. Những ngón tay bà quả đã bắt đầu khô, nhăn. Hơi ấm của người bà truyền sang tôi cùng với cái mùi vị đặc biệt, cái mùi của mẹ, tôi đã không được ngửi thấy từ bao nhiêu năm. Ngày còn bé, khi mẹ tôi mới bỏ đi, nhiều đêm tôi đã khóc vi nhớ cái mùi đó, cái mùi đã cho tôi những giấc ngủ êm đềm. Từ khi tôi không còn ngửi thấy nó, tôi cũng mất luôn những giấc ngủ ngọt ngào, buổi sáng thức dậy luôn thấy sợ hãi, cho đến ngày tôi đủ trí khôn thì tôi biết, nó là cái mùi của mẹ tôi, tôi thiếu cái mùi ấy chứ không phải là thiếu ngủ. »
Người con gái cầm cuốn sách, giở từng trang dò kiếm và đọc lại cái đoạn mà có lẽ cô vừa mới đọc đêm qua. Giọng miền Nam nhưng khi cô đọc, đôi mắt miên man lướt theo từng câu từng chữ. Ngừng lặng đúng lúc như đang diễn tả một bài nhạc của một người am hiểu về nhạc lý, làm chơi vơi tâm tưởng những người bạn quanh cô.
Đó chẳng phải là một cuốn sách duy nhất đã được đọc trong những giờ ra chơi. Nhưng những cô học trò hiện diện vào những buổi ra chơi của bao ngày tháng đó, chắc chắn sẽ chẳng bao giờ quên được cuốn sách và nhân vật nữ không tên, người con gái có một vết nám trên mặt. Cuộc sống của nhân vật nữ này có thể như là một hình mẫu, một giấc mộng tương lai, mà họ, những cô học trò ngoan hiền như chim non còn nằm trong tổ đã từng mơ được bay bỗng, được sống những ngày đời như thế. Một đời sống tư lập, tự do đầy quyến rũ, không nằm trong lệ ước của đời thường.
Một trong những thiếu nữ năm ấy chính là tôi.
Chỉ là một đoạn văn, nhưng tôi đã cảm nhận thêm một thứ mùi hương khác. Khác với cái mùi của không gian- cảnh vật, của tình cảm yêu đương mà tôi hằng nghe diễn tả từ một tiếng nói trên đài phát thanh vào những đêm thứ năm. Cái mùi mẫu tử này ai lại chẳng từng hít thở, nâng niu bằng một cách nào đó trong đời sống. Cái mùi thiêng liêng, nồng nàn và ấm áp.
Tôi biết đến nhà văn Nguyễn Đình Toàn qua tiếng nói, rồi đến văn chương. Dù cái biết về văn chương thuở ấy chỉ là một « con đường » không dài, không ngắn mà đi qua là mãi hoài lưu luyến.
Mãi mãi, cho đến tận bây giờ…
Có những đêm mất ngủ, tôi vẫn tìm thấy lại mình của những đêm thứ năm xưa. Những đêm nằm cong mình, đắm chìm theo tiếng nói, trong bóng tối của căn gác nhỏ.
Chỉ là hồi tưởng, vậy mà tôi cũng tìm lại được cái cảm giác khi nằm nghe những bản tình ca, cùng với âm thanh của gió, mưa, của tiếng lá khô rơi trên đường… Dù thứ cảm giác thuở ấy chỉ là sự mường tượng, dù thực tại bên ngoài ngập đầy băng tuyết của mùa đông.
Vẫn nhớ chiếc radio xinh xắn như một hộp bánh biscuit hình chữ nhật bằng nhựa cứng màu hồng pha trắng, mà trên mặt có khắc một hàng chữ : « Chính phủ quốc gia Nhật Bản kính tặng những chiến sĩ của quân lực Việt Nam Cộng Hoà ».
Chiếc radio thời chiến chẳng phải chỉ dành cho những chiến sĩ nơi tiền đồn heo hút, mà cả người nhà chiến sĩ là tôi cũng may mắn được sở hữu.
Vẫn nhớ đến hình vẽ trên một bìa nhạc mà tôi đã dùng để bọc cuốn nhật ký viết cho một người đã chết.
Ngày thần tiên em bước lên ngôi, đã nghe son vàng tả tơi (6)… Chẳng có lời hát nào hay hơn mà tôi nghe được năm tôi mười bảy tuổi.
Bây giờ thì tiếng nói đã thành tiếng hát. Bàn tay ngồi viết từng trang sách giờ lướt trên những cung đàn. Và văn chương làm rung động bao tâm hồn thiếu nữ nay là những khúc bi ca, tiếng nói của kiếp người trên một quê hương khốn khổ.
Đêm quê hương, đêm treo trên một cành ngang
Chôn nhau xong làm dấu nhớ chỗ ai nằm
Cơn mưa giông, đêm qua đông trời lạnh lắm
Gió khắp bốn bề, cây rừng núi run hình bóng
Mai rạng đông đến lượt ai đem chôn
…
Cố thắp cho em một ngọn đèn
Bằng nhọc nhằn cay đắng
Của hình hài rã trong trại giam (7)
Tôi đã lắng nghe tiếng hát và bùi ngùi với những câu ca, trong những bản nhạc như thế. Cũng với bóng đêm, cũng là những khoảnh khắc một mình, hay những đêm trở giấc.
Tôi vui mừng khi biết tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Đình Toàn được tái bản. Ngoài hai chữ « vui mừng » đơn giản nói lên cái cảm xúc của mình, không biết phải dùng từ nào khác cho đúng nghĩa.
Hai cuốn sách dầy cả bảy trăm trang gồm sáu truyện dài. Có những truyện tôi chưa hề đọc, hay có đọc chỉ loáng thoáng đâu đó một vài chương.
Có thể có những giòng chữ lôi cuốn hơn những gì tôi đã đọc ngày xưa. Nhưng khi cầm hai cuốn sách đặt mua từ Amazon, cái trang đầu tiên tôi giở ra là tìm đến « con đường », tìm đến đoạn văn tả về một đêm chia tay của hai mẹ con, của người con gái có vết chàm trên mặt.
Tìm, như tìm lại đời mình những ngày tháng cũ tươi hồng.
Nghĩ lại, tôi đã đến miền nam Cali rất nhiều lần, gặp bao nhiêu người trong giới văn nghệ sĩ. Sao chưa bao giờ tôi gặp được ông, nghe được cái tiếng nói mà không qua một âm thanh sàng lọc nào của máy móc.
Bạn thân mến, tôi sẽ gửi cho bạn một điện thư để nói với bạn rằng, bạn hãy đi gặp ông ấy. Hãy nói với ông rằng, từ Sài-Gòn tới Paris, gần cả nửa thế kỷ dài, có một người đã lắng nghe tiếng nói của ông và vẫn nghe mãi cho đến bây giờ. Mong ông nhiều sức khoẻ !
Đặng Mai Lan
1- Nhớ lại trong đêm nay ( nhạc Trần Duy Đức, phổ từ thơ Du Tử Lê )
2- The sound & the fury (Faulkner)
3- A time to love and a time to die ( Erich Maria Remarque)
4- La vingt – cinquième heure ( Constantin Virgil Gheorghiu)
5- Thousand Cranes ( Yasunari Kawabata)
6- Tình khúc thứ nhất ( thơ Nguyễn Đình Toàn, nhạc vũ Thành An)
7- Hãy thắp cho nhau một ngọn đèn ( Nhạc và lời của Nguyễn Đình Toàn)